Tuesday, December 5, 2017

242. TRẦN HOÀI THƯ Giữ thơm quê mẹ




Giữ Thơm Quê Mẹ (GTQM)  là một tập san văn nghệ ra hàng tháng do Lá Bối xuất bản. Số 1 phát hành tháng 7 năm 1965. Số cuối cùng tháng 12 phát hành tháng 6  năm 1966. Từ số 1 đến số 8 nhà thơ Hoài Khanh coi sóc. Từ số 9 đến số cuối cùng ( số 12), nhà thơ Trụ Vũ thay thế nhà thơ Hoài Khanh.

Ra đời vào lúc cuộc chiến leo thang, với những trận đánh qui mô diện địa, lúc mà nỗi bất an ve vuốt mọi người mọi lứa tuổi, lúc mà xã hội bị rung bật gốc vì sự có mặt của quân đội đồng minh, GTQM đã được đón nhận với tất cả thiện cảm của một số người, độc giả lẫn văn hữu. Bởi nó đã ít ra cũng đáp ứng phần nào niềm khao khát và ước mơ của người dân là mong chiến tranh  được sớm chấm dứt..,

Khác với các tạp chí khác, ở số đầu thường có Thư Tòa soạn viết về chủ trương, đường hướng của tạp chí,  nhưng ở đây, GTQM thì không có thông lệ này. Tuy vậy, người đọc cũng biết ngay nó  một tạp chí  văn chương nghệ thuật có đường hướng dựa vào tư tưởng Phật giáo, chống chiến tranh  một cách tích cực, mà linh hồn tờ báo là Nhất Hạnh.

Bút danh Nhất Hạnh có mặt thường xuyên trên hầu hết các số báo. Từ thơ đến văn. Từ tâm bút đến luận thuyết hay tiểu luận. Hai tiểu luận dài là Nẽo về của ý và Nói với tuổi 20 được đăng nhiều kỳ. 

Số xuân Bính Ngọ (7-9) là số báo hùng hậu nhất với  sự góp mặt của Nguyễn Hiến Lê, Nhất Hạnh, Võ Hồng, Kim Tuấn, Vũ Đình Lưu, An Châu Lan, Ruth Jhabvala, Tuấn Huy, Vương Hồng Sển, Quế Thanh, Chín, Hằng Hà sa, Thành Tôn, Đinh Cường, Sơn Nam, Viên Linh, Cao Trúc Vũ, Hải Triều, Dương Nghiễm Mậu, Hồ Hữu Tường, Phạm Duy, Uyên Hà, Lưu Nghi, Thái Tú Hạp, Lạc Hà, Vương Pển Liêm, Phạm Công Thiện, , Chinh Văn, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Kim Phượng, Định Giang, Hà Nguyên Thạch, Hoài Khanh... 

Những tác giả có bài thường xuyên nhất là Nhất Hạnh rồi đến Chín (truyện ngắn), Thành Tôn (thơ), Hoài Khanh (thơ), Trụ Vũ (thơ), Tam Ích (thời sự văn học), Hồ Hữu Tường (Tạp văn), Võ Hồng (truyện), Chinh Ba (truyện), Dương Nghiễm Mậu (truyện)…

Riêng về nhạc, có tất cả 7 bài Tâm ca của Phạm Duy được đăng trên GTQM.



KHUYNH HƯỚNG VĂN CHƯƠNG TRONG GTQM
Chống chiến tranh, đề cao  tư tưởng Phật giáo. 

Khác với tạp chí Văn Nghệ có mặt trước đó hai năm với chủ trương văn chương phải đấu tranh, phải gia nhập, luôn luôn cảnh báo về cái hiểm họa Cộng Sản thì ngược lại GTQM đã quay 180 độ về cái nhìn về cuộc chiến. Trên GTQM số 12, dưới tiêu đề “Tất cả trái tim chúng tôi đều hướng về họ”, - một bài viết về chính trị duy nhất trên GTQM- tác giả Phi Chiến nói rõ hơn về  lập trường của GTQM:

“...không phải chúng tôi sẵn sàng mở cửa vào miền Nam Việt Nam này, không phải là chúng tôi bỏ cuộc tranh đấu chống lại sự xâm nhập của Cộng Sản. Nhưng chúng tôi có đường lối chống Cộng của chúng tôi, khác hẳn với đường lối của người Mỹ. 

“Đạo Phật đại từ đại bi vẫn có đại hùng đại lực để ngăn chận tất cả những chủ nghĩa ngoại lai không có gốc rễ trong dân tộc.Và đạo Phật sẽ có đủ đức độ đem tình thương phủ lên sắt thép.”

Quan niệm “đem tình thương phủ lên sắt thép” được tìm thấy trên một số thơ văn đăng trên GTQM. Khi thì bàng bạc, khi thì đậm nét. Không còn “tụi  Cộng Sản đang đe dọa chúng ta. Chúng muốn gì đây ? “ như nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã cảnh báo trên Văn Nghệ, mà là con quái vật không hình không dạng là “ chiến tranh”.  Chưa bao giờ chiến tranh bị kết án, nguyền rủa, oán trách thậm tệ như thế. Làm như chiến tranh là một bạo chúa có thật, không hơn không kém.

Đợi cho đến khi có bài tâm ca số 7 của Phạm Duy  ra đời, thấy ghi trên mục lục của GTQM số 7 nhưng trang ruột thì không, thì con quái vật kia mới được mô tả cặn kẻ:

Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai ?
Kẻ thù ta tên nó là gian ác
Kẻ thù ta tên nó là vô lương
Tên nó là hận thù
Tên nó là một lũ ma (thế thì)
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai ?
Kẻ thù ta mang áo mầu chủ nghĩa
Kẻ thù ta mang lá bài tự do
Mang cái vỏ thật to
Mang cái rổ danh từ
Mang cái mầm chia rẽ chúng ta (thế thì)
…….
Bài hát như một kinh nhật tụng của một số người trẻ trí thức hay học sinh sinh viên bấy giờ. Mỗi lần hội thảo, biểu tình, hay họp hành, thì các tham dự viên cùng vỗ tay cùng đồng ca: Kẻ thù ta đâu có phải là người/Giết người đi thì ta ở với ai...  Những bài tâm ca ấy cọng vào nhạc Trinh Công Sơn, đã ít nhiều gây những hoang mang ngờ vực, chán chường chiến tranh không ít thì nhiều. Vậng, kẻ thù ta đâu có phải là người...Giết người đi thì ta ở với ai ? Việt Cọng  cũng là người, vậy giết Việt Cọng thì ở với ai ?

Nhiều người kết tội Nhất Hạnh đã tiếp tay với kẻ thù khi ông làm làm tờ GTQM. Thật sự ông không có một bài văn bài thơ nào hô hào cổ xúy cho việc buông súng hay xé hay đốt lệnh gọi động viên như ở Mỹ. Lúc ông làm tờ GTQM cũng là lúc Đoàn thanh niên phụng sự xã hội ra đời.Ông muốn tuổi trẻ thay vì “đốt tuổi” nên làm những công việc hữu ích cho tha nhân. Nói với tuổi hai mươi đã chứng minh được điều đó. Chỉ có Phạm Duy với mười bài tâm ca do Lá bối xuất bản vào tháng 10-65, mới là “giết người đi thì ta ở với ai”. Và chỉ có những số sau đó, thơ văn phản chiến mới thật sự ló mặt trên GTQM.


GTQM VÀ THƠ VĂN PHẢN CHIẾN
THƠ

GTQM số đầu không thấy một bài văn hay bài thơ nào có tính cách chống chiến tranh. Nó không có tuyên ngôn, quan điểm, lập trường đình đám. Nếu có chăng, chỉ có bài thơ Chỗ đứng của Nhất Hạnh ỡ trang đầu tiên như xác định chỗ đứng của tạp chí:

quê hương tôi là đây
chỉ có dòng sông, hàng cau, vườn chuối;
 mặt đất dù mang đầy cát bụi
nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm.

Đấy, đâu có gì đụng chạm đến phản chiến hay chống chiến  tranh hay chống Mỹ cứu nước đâu. Nó chỉ là tập họp bài viết của những tác giả quen thuộc bấy giờ như Nhất Hạnh, Phạm Công Thiện, Thành Tôn, Bùi Giáng, Hoài Khanh, Võ Hồng, Sơn Nam, Phạm Duy, An Di, Kim Tuấn, Chín, Tam Ích, Dương Nghiển Mậu, Nguyễn Đức Sơn, Bình Nguyên Lộc… 

Mãi đến sau khi 10 bài tâm ca của Phạm Duy được Lá Bối phát hành vào tháng 10-65, thì thơ văn chống chiến tranh kêu gọi xóa bỏ hận thù bắt đầu bừng rộ trên những trang giấy:

Thôi xin ngừng tiếng hận thù
cho con tôi được tiếng ru đưa đường
chỉ cần những tiếng ru thương
“công cha như núi Thái Sơn”… ngọt ngào
là con thấy được trời cao
là con thấy được đường nào con đi
(Trụ Vũ. Tiếng Mẹ. GTQM số 9)

Hay:

cho đêm bừng đóa mặt trời
cho thân thể mẹ qua rồi đớn đau
cho em tiếng hát ngọt ngào
cho vùng suy tưởng chở vào giấc thương
cho chim hoa bướm mùa xuân
cho lời kinh kệ tan cơn oán thù
cho tàn binh lửa đôi bờ
cho cành dương nước cam lồ vô biên
(Thái Tú Hạp – Lời buồn treo cao. GTQM số 7)

hay
  
Trong bóng đêm
Địa cầu quê hương tôi đã mòn mỏi trông chờ
Giờ mầu nhiệm để Vô Biên hé mở
Cho bóng tối tan đi với niềm lo sợ
Cho hội Long Hoa về
Để pháp âm tiếp nối bằng lời ca tiếng hát em thơ
Đêm nay xin mười phương trăng sao chứng minh
Cho địa cầu quê hương dâng lời cầu nguyện
Cho Việt Nam khói lửa
Cho Việt Nam điêu linh
Cho Việt Nam quằn quại đắm chìm trong máu lệ
Sớm vùng dậy trong đau thương thế kỷ
(Nhất Hạnh, đêm cầu nguyện. GTQM số 7)

Hay :
  
Tiếng khóc mẹ bay lên làm nỗi nhớ
theo khói hương rợp nấm cỏ thanh xuân
cha nằm xuống tan tành cơn súng nổ
trên quê hương cuộc chiến thấm loang dần…
(Thành Tôn, mùa xuân nói xuống. GTQM số 7)

Có tác giả biểu lộ thái độ phản chiến một cách nhẹ nhàng, có người thì hằn học, chua chát, khi thì phẩn nộ:

- Thưa anh Việt Cộng là gì ?

- Mày còn nhỏ không cần biết. Hãy lo học đi.

- Anh đã giết bao nhiêu VC thưa anh ?

- Làm sao tao biết. Biết gì chuyện giết người.

- VC có dữ lắm không ? 
VC có giống người Việt Nam không ?

- Thằng nhỏ hãy câm mồm
Tắt đèn đi ngủ 
Để tao nghỉ sáng mai lên đường.

- VC ốm lắm phải không anh ?
Tại sao lại có VC
Tại sao lại đánh nhau hả anh ?

- Thằng nhỏ, hãy im nghe không
Đừng hỏi mà tao khóc
Đừng nhắc mà tao điên
Sáng mai tao còn lên  đường…
(Thái Luân: đối thoại đêm 1953, GTQM số 12)

Cả bài thơ trên là một tiếng kêu thống thiết của một nhà thơ trẻ quân nhân về một cuộc chiến nồi da xáo thịt mà chàng không chấp nhận, nhưng chàng không còn cách gì khác là phải  tham dự. Phản chiến ở đây là  do Chúa do Phật do “nhân chi sơ tính bản thiện” chứ không phải do chàng đâu. Chàng vẫn lên đường ra mặt trận mà. Chàng vẫn cầm súng gát lúc 3 giờ sáng mà:

Bây giờ ba giờ sáng
sương xuống đầy trên vai
anh đứng ghìm tay súng
nghĩ nhiều về tương lai
về cuộc chiến tranh này
còn lâu lắm em ơi !
…..
bây giờ 3 giờ sáng
đêm đen, vô cùng đen…

(Đynh Trầm Ca, Phiên gát, GTQM số 11)

VĂN:

Về lảnh vực Văn tạp chí GTQM là nơi mà các tác giả như: Nhất Hạnh, Chín, Chinh Ba có đất tốt để gieo trồng những mầm hạt văn chương của mình.

Một Yên Chi (bút hiệu cũ của Nhất Hạnh) tác giả truyện ngắn Ảo Tượng từng đăng trên tạp chí Văn Nghệ vào năm 1962 nhưng phải đợi đến lúc nó được thay thế bởi bút danh là Nhất Hạnh, người đọc mới nhắc nhở nhiều đến Ảo Tượng. 

Ai cũng biết Nhất Hạnh là người xuất gia mang áo nâu/xám sòng, đầu cạo tóc. Nhưng ở GTQM, ông là mẫu người khủng khiếp lắm. Ông lăn xả vào con đường hành động. Ông viết Nói với tuổi hai mươi để cổ xúy cho đường lối tu hành  mới của ông. Đó là thái độ dấn than tích cực:

“ Hình ảnh của con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy là hình ảnh của những cuộc đời sẵn sàng lăn xả vào hành động. Hành động, phải hành động dũng cảm. Phải sẵn sàng đối phó. Phải trào lên, phải dâng cao. Phải xăn cao hai tay áo, đi vào cuộc sống một cách tích cực ....”
(trích từ bút ký  Bến Tre, GTQM số 2, trang 21)

Và ông đã xăn hai tay áo thật. Dư luận có người khen,  kẻ chê, người tung hô, kẻ chửi rủa. Đó là chuyện khác, ngoài lảnh vực văn chương. Chúng tôi xin được   miễn bàn.

Tác giả Chín tức Cao Ngọc Phượng là người có bài thường xuyên đều đặn.  Chúng là những ghi nhận dưới con mắt của một người du học có bằng cấp cao về nước để tham gia vào những công tác thiện nguyện.  Cái nhìn ấy là nỗi đau xót của tác giả trước những người dân quê mộc mạc, nghèo khó, ít học, nhiều mê tín. “Làm sao niềm tin vừa chớm nở trong anh đủ sức khiến anh bớt khổ đau và tuyệt vọng đây?”  (Anh Tư Lo. Số 2)
  
Nhà văn tôi nghĩ nổi bật nhất trên GTQM là Chinh Ba mà truyện ngắn Bài Thơ trên xương cụt là một trong số những truyện hay nhất tôi được đọc.

Tôi nhớ trước khi thực hiện Bô Văn Miền Nam trong thời chiến, tôi gởi điên thư đến một số thân hữu với câu hỏi: “Bạn còn nhớ bài văn nào vẫn còn mang dấu ấn đến bây giờ?” Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên thì cho biết: “Thư từ Tuy Hòa của Cảnh Cửu”. Còn nhà văn Nguyên Minh trả lời là truyện: “Bài thơ trên Xương Cụt của Chinh Ba (1)” được đăng trên Giữ Thơm Quê Mẹ.

Một bài văn mà bạn tôi vẫn còn giữ khắc trong tâm trí  suốt gần nửa thế kỷ, thì không thể là bài văn đọc-xong-rồi-bỏ-được.

Xin được trích ra đây một đoạn hơi dài để giải thích tại sao lại có “bài thơ trên xương cụt”:

“Lão nằm, ngẫm nghĩ, cười sằng sặc một mình rồi trổ miếng đòn bí hiểm đó ra:

“Em Út nè! Đâu, em trịch cái quần anh xuống một chút thử coi có cái gì, hà hà hà…”

Thật là một câu lỗ mãng và tục tĩu mà chỉ có Ba Lò Heo mới thốt lên được một cách tự nhiên như vậy! Út Lệ im lặng, sự im lặng có nghĩa như một tiếng khóc nấc.

Lão Ba nói:

“Em thấy chưa? Ở trên chỗ xương cụt đó, thằng bảy Kền làm riêng bài thơ tặng anh. Học thuộc đi rồi hát cho anh nghe. Đừng có lôi thôi gì nữa hết.”

Út Lệ vẫn im lặng. Bây giờ sự im lặng đọng lại thành một giọt nước trong khoé mắt tôi.

Bên kia vách, hình như men rượu đã ngấm đều vào máu Ba Lò Heo, lão rút con dao phay liếc rổn rảng trên vành lu.
“Đọc, tao biểu mầy đọc, không đọc thì bay đầu!’

Út Lệ nghẹn ngào, đọc đi đọc lại bài thơ nằm ở chỗ kém sạch sẽ đó.

Trong đời tôi, tôi đọc thơ cũng khá nhiều, tôi nghe người ta ngâm thơ cũng bộn, nhưng tôi chỉ biết có một bài thơ làm cho người đọc phải vừa đọc vừa khóc vì tủi nhục, ấy là bài thơ trên xương cụt của Ba Lò Heo.

Hẳn có vị tò mò muốn biết bài thơ ấy hay ho như thế nào! Lúc đầu tôi đã toan ghi nó ra đây, nhưng e làm thế thì vô lễ với độc giả quá, nên lại thôi. Tuy vậy, nếu giấu đi cái phần độc đáo của bài thơ thì cũng tủi cho tác giả đã dùng một thứ kỹ thuật tân kỳ để làm cho những dục vọng của Ba Lò Heo được tẩm quất đều đều qua từng câu từng chữ. Những dục vọng ấy chỉ súc tích trong những hạng người thường ngứa ngáy chỗ xương cụt, mà không muốn tự mình gãi cho mình.

Nếu nói một cách khôi hài thì Ba Lò Heo đã định nghĩa văn nghệ là sự tẩm quất dục vọng hoặc là sự làm-đã-ngứa chỗ xương cụt; nên lão đã đặt cơ sở nền văn nghệ trên chiếc xương cụt của lão.

Nghệ sĩ Út Lệ không đồng ý như vậy, nên qua ngày hôm sau, thừa lúc lão Ba đi vắng, chị bồng đứa con riêng, bỏ nhà ra đi.”

Đó là một truyện ngắn duy nhất trên GTQM viết về sự hà khắc, ngu dốt của những kẻ lảnh dạo văn hóa bấy giờ. Nhưng nó vượt thời gian và không gian. Nó đúng cho hôm qua và bây giờ.

Một nhà văn có bài đăng nhiều trên GTQM là nhà văn Dương Nghiễm Mậu với những truyện: Khí hậu pháo xiết (số 1) , Mỗi người (số 4), Kẻ nuôi máu (số 6), Thư viết từ một xóm quê (số 7 & 8). Các truyên này không hề đá động gì đến cuộc chiến hay suy nghĩ về cuộc chiến – đề tài sở trường và quen thuộc của ông.

Tôi không hiểu tại sao ông lại chọn GTQM để mà gởi trao những đứa con tinh thần của ông, trong khi ông đã từng cảnh báo về hiểm họa Cọng Sản trên tạp chí Văn Nghệ  trước đó 3 năm. Hay là ông đã mất niềm tin ?

KẾT LUẬN

Mặc dù chỉ 12 số ngắn ngủi nhưng GTQM đã tạo nên một hiện tượng trong nền văn học miền Nam bấy giờ. Đó là việc lấy tư tưởng Phật giáo để giải quyết chiến tranh, cổ xúy cho một cuộc đấu tranh “ mang tình thương để dẹp sắt thép”. Người ta có thể trách cứ GTQM tiếp tay vào sự làm sụp đổ miền Nam, nhưng xét cho cùng, chính quyền miền Nam vẫn xem chủ trương “lấy tình thương để xóa bỏ hận thù” làm quốc sách mà. GTQM chỉ là những tuyển tập văn chương không hơn không kém. Đọc xong có thể bỏ vào tủ sách gia đình hay vất vào sọt rác. Nhưng có một thứ không thể vất được. Đó là những bài tâm ca của Phạm Duy. Tôi tự hỏi tại sao chính quyền thời ấy kiểm duyệt bôi đen chữ bom trong hai chữ bom lửa (truyện Đóa sen vàng của Chinh Ba), thì tại saovẫn cho phép 10 bài tâm ca được xuất bản, được hát khắp nơi, được thay vào những bài hát chào cờ hay mặc niệm...: kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai ... 

Để bây giờ phải trả bằng một giá quá đắt.

Vậy thì nếu trách thì trách ai đây? GTQM hay là nhạc sĩ Phạm Duy hay là vì sự lơ là của đám kiểm duyệt bấy giờ ?

Trần Hoài Thư
(Viết xong ngày 5-12-2017)
__________________________________________
 (1) Chinh Ba tên thật Phan tấn Nhựt, nguyên quán Bảo An, Điện Bàn Quảng Nam, sinh năm 1934.  

Các bút danh khác: Phan Phong Chinh, Trọng Cưu, Thông Mai, Thảo Nguyên, Cước Nguyên, Kiều Mỹ Vân, Hà Thời Đán.Từng cộng tác với các báo: Nhân Loại, Ngày Mới, Bông Lúa, Mã Thượng (chủ biên), Giữ Thơm Quê Mẹ, …

Riêng truyện “Bài thơ trên xương cụt” được nhà thơ Hoài Khanh chọn đăng trên tập san Giữ thơm quê mẹ số 4, tháng 10-1965, sau đó nhà xuất bản Lá Bối in chung với nhiều tác giả trong tuyển tập “Ảo Tượng”.

Đã học:

Tiểu học: Trường Bảo An
Trung học: Tam Kỳ, Quảng  Ngãi
Đại học: Sorbone, Pháp