Saturday, June 3, 2023

2928. Thơ NGUYỄN AN BÌNH Khi ghé thăm Phạm Cao Hoàng ở Virginia

Background by PCH

Tặng anh chị Phạm Cao Hoàng

 

1- Nghe như đất dậy mùi hương

Kiếp người phận mỏng cánh chuồn ngày mưa

Nơi nầy đâu phải chốn xưa

Chợt nghe gió sớm sang mùa vậy thôi.

 

2- Dòng Potomac vẫn trôi

Quê nhà ta đó người ơi thấy gì

Một lần lỡ bước chim di

Trăm sông nghìn suối biệt ly nhạt nhòa.

 

3- Bên rừng Scibilia

Có người thao thức... quê nhà nơi đâu

Chỉ nghe tiếng gió xạc xào

Tiếng chim lẻ bạn rúc vào hư không.

 

4- Trước nhà hồng đỏ từng bông

Lung linh nắng sớm vàng trong sương chiều

Ở đây năm tháng quạnh hiu

Bầy chim viễn xứ buồn thiu thắt buồn.

 

5- Mai chớp bể - mốt mưa nguồn

 Đi qua dâu bể biết còn gặp nhau

Thời gian – chiếc áo lụa nhàu

Vắt qua kinh sử nỗi đau nghìn trùng.

 

6- Ly tao một khúc tương phùng

Một mình lạc giữa mịt mùng khói sương

Ly cà phê nóng bên đường

Có san sẻ chút yêu thương xứ người.

 

7- Giữ cho nhau nhé tiếng cười

Virginia thấy đất trời xanh trong

Bên rừng bên núi mênh mông

Kiếp tằm nhã hết tơ lòng còn vương.

 

8- Chào nhau ở cuối con đường

Bèo mây tan hợp vô thường đó thôi

Giật mình nghe tiếng lá rơi

Phải chăng lá cũng bồi hồi cùng tôi.

 

9- Đọc thơ anh thoáng ngậm ngùi

Nỗi hoài hương đọng đất trời ai hay

Một ngày mây có ngừng bay

Cũng may còn giữ tình đầy cỏ hoa.

 

10- Mai tôi về lại quê nhà

Đem theo nỗi nhớ trăng tà điểm sương

“Đất còn thơm mãi mùi hương”

Dấu chân viễn xứ đọng buồn tháng năm.

 

NGUYỄN AN BÌNH

*Virginia-Sài Gòn 4/6/2023


Nguyễn Minh Nữu   Phạm Cao Hoàng   Nguyễn An Bình   Phạm Thành Châu
Virginia, 16.5.2023

2927. TRỊNH Y THƯ Truyện ngắn ĐÔI MẮT CỦA BÓNG ĐÊM


1. 

Người đàn ông đứng nhìn vào khung cửa kính to rộng của gian hàng đồ chơi trẻ con. Tiệm đóng cửa từ lâu. Có lẽ đã gần nửa khuya. Đêm Chủ nhật, khu buôn bán chẳng còn ai lui tới, lâu lắm mới có người tạt ngang tiệm 7-Eleven mua vội vài món cần thiết rồi tất tả ra xe phóng đi. Bãi đậu xe vắng lặng, hơi sương lù mù khiến không gian như hẹp lại, xập xoạng dưới những vũng sáng yếu ớt trắng nhờ, nhợt nhạt phả xuống từ mấy cột đèn trong bãi đậu xe.

    Người đàn ông đứng đó lâu lắm và giả như có người nãy giờ theo dõi hành vi của anh hẳn phải nghi ngờ anh đang có âm mưu ám muội nào đó. Chẳng lẽ anh là kẻ trộm đang rình rập tìm cách cạy cửa vào tiệm? Lẽ nào? Ăn trộm hành động như chớp nhoáng, chẳng bao giờ dại dột đứng ỳ một chỗ như bức tượng trước nơi mình sắp sửa hành nghề. Hơn nữa, ăn trộm không ăn mặc bảnh bao như anh: com-lê xanh đậm, cà-vạt thả lơi trên cổ sơ mi trắng, chân đi giày da loại đắt tiền. Anh có dáng dấp một người tự tin, thành đạt trong cuộc sống, gia đình hạnh phúc, vợ đẹp con khôn, chẳng bao giờ biết đau khổ, thiếu thốn là gì. Thoạt nhìn, ai cũng phải nhận ra ngay anh thuộc thành phần da trắng thượng lưu trong xã hội Mỹ. Tên họ anh có lẽ là cái tên Anglo-Saxon hay Do Thái nào đó; nhà cửa anh có lẽ nằm trong khu biệt lập có cổng ra vào, nhân viên bảo vệ canh gác ngày đêm; con cái anh có lẽ theo học những trường tư đắt tiền, nơi đào tạo thế hệ lãnh đạo tương lai của đất nước này; vợ anh có lẽ thời Trung học là hoa khôi trong trường, làm bạn với anh từ năm lớp mười một vì anh nổi tiếng vừa học giỏi vừa là cầu thủ ném banh xuất sắc trong đội bóng rổ; anh có lẽ tốt nghiệp từ trường đại học Ivy League nào đó, và sau khi ra trường nắm giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy tư bản khổng lồ, năm này qua năm nọ giữ vững nước Mỹ ở vị thế siêu cường số một trên thế giới.

    Anh phải là người lạ mặt nơi đây. Trông anh thật lạc lõng giữa khu buôn bán tầm thường, xộc xệch của thành phố, nơi chỉ có đám dân thiểu số nghèo đến mua sắm những món hàng gia dụng rẻ tiền.

    Nhưng nếu không phải là kẻ trộm thì anh làm gì ở đây vào giờ này?

    Anh đứng hai tay thọc túi quần, mắt chăm chú nhìn những món đồ chơi xinh xắn đủ sắc màu bày biện la liệt bên kia song sắt và lớp kính dày. Ánh sáng nhợt nhạt của đèn đường hắt vào không cho anh thấy rõ

tất cả mọi vật trong tủ kính, nhưng món đồ đập vào mắt anh nãy giờ là đoàn tàu hoả nằm nghênh ngang trên đường sắt quây tròn giữa mô hình núi đồi sông ngòi mấp mô lên xuống thật đẹp mắt. Trông nó như đoàn tàu thật anh thường thấy chạy vùn vụt bên cạnh xa lộ xuyên bang mỗi lần anh chở vợ con đi nghỉ mát cuối tuần. Thằng con trai bẩy tuổi ngồi băng ghế sau dán mũi vào cửa kính xe nhìn ra không chớp mắt. Đoàn tàu chạy băng băng trên cánh đồng thảo nguyên, kích thích trí tưởng tượng của thằng bé. Nó thắc mắc không biết đoàn tàu đi về đâu; lòng tàu chứa những thứ gì; biết bao chân trời xa lạ đoàn tàu sẽ xuyên qua. Mỗi lần được dẫn đi thương xá, nó hay kéo tay mẹ vào tiệm đồ chơi, nơi trưng bày đoàn tàu tuyệt đẹp nằm trên mô hình núi đồi. Anh biết thằng bé mê tàu hỏa và định bụng sẽ mua làm quà cho nó nhân dịp Giáng Sinh hoặc sinh nhật nó sắp tới. Nhưng anh cứ lần lữa, chẳng phải bởi anh tiếc tiền dù món quà trị giá gần hai trăm đô-la, mà chỉ vì tâm trí anh luôn bị khuấy động bởi trăm thứ linh tinh khác và chuyện mua quà cho thằng bé bị nhét xuống hàng thứ một trăm lẻ một. Bây giờ, đứng trước tiệm bán đồ chơi, bất chợt nhìn thấy món quà hứa với thằng bé suốt bấy nhiêu năm, anh bỗng thấy mình có lỗi với con hết sức. Tại sao chỉ một việc cỏn con như vậy mà suốt mười năm trời anh không thực hiện nổi? Thằng bé không nhèo nhẹo đi theo vòi vĩnh anh vì nó là đứa bé ngoan, nhưng không phải vì thế nó không buồn tủi trong lòng. Biết đâu nó vô cùng thất vọng nơi anh, một người cha không biết con cái muốn gì, chẳng bao giờ để ý đến tâm tình của thằng bé. Biết đâu trong lòng nó anh hiện thân là người cha xấu. Bây giờ nó đã mười bẩy tuổi. Dĩ nhiên, nó không còn dán mắt vào tủ kính tiệm đồ chơi trong thương xá nhìn đoàn tàu hỏa tí hon chạy rập rình xuyên qua mô hình núi đồi sông ngòi vui mắt nữa. Một hôm nó trốn nhà theo mấy đứa bạn nhảy tàu hỏa sang tận Chicago chơi. Nó gọi về nhà báo tin, bảo hai ba bữa sẽ về. Vợ chồng anh thót tim vì cuộc phiêu lưu liều lĩnh của thằng con, nhưng rồi anh vẫn chẳng nhớ gì đến món quà anh hứa cho đến ngày hôm nay, khi anh một mình lạc lõng trong khu phố tồi tàn dơ bẩn vào lúc gần nửa đêm giữa lòng thành phố xa lạ này.


Tranh Nguyên Khai

2.

Anh thấy có lỗi không những với đứa con trai mà với vợ nữa. Từ văn phòng trên lầu năm mươi tư của ngân hàng UBS Manhattan anh gọi điện về nhà. Anh bảo cô sáng sớm ngày mai, dù là thứ sáu, anh phải bay sang San José dự phiên họp khẩn với tập đoàn công ty X. Họ đang có nhiều vấn đề, doanh thu đợt này có thể dưới nhiều mức dự kiến. Anh cần nói chuyện trực tiếp, mặt-đối-mặt, với tay CFO của công ty.

    Công ty X, có thể là công ty Y. Làm sao vợ anh biết đâu vào đâu. Xứ sở này có hàng trăm, hàng nghìn  doanh nghiệp như vậy và dưới mắt cô chúng là những hình khối khổng lồ vô hồn, vô nhân diện. Vô hình

nhưng chúng đầy ắp sức mạnh; chúng nuôi sống hàng trăm triệu con người, song cũng có thể bóp chết tươi bất cứ ai khờ khạo đứng lên ngăn cản bước đi của chúng. Anh là phân tích viên thị trường chứng khoán đặc trách công nghệ điện bán dẫn, vì thế dù làm việc và sinh sống ở New York, thung lũng Silicon ở California này chẳng xa lạ gì với anh.

    “Tối nay em đi ăn với Kate, tiệm Giovanni's Atrium trên đường Washington. Anh nhớ cách đây ba năm vợ chồng mình và vợ chồng Joan ăn ở đó không? Kate đang gặp khó khăn với thằng con, cần gặp em để tâm sự và vấn kế.” Giọng vợ anh lúc nào cũng ôn nhu, ấm áp như kể chuyện cổ tích.

    “Anh nhớ chứ. Anh cũng thích tiệm này lắm.” Anh vồn vã trả lời cô. “Tay đầu bếp trứ danh Mauro Torellini nấu món thịt bò phi-lê Mignonette Cardinale cả New York chẳng tiệm nào ngon bằng. Nhưng

nếu không thích thịt bò phi-lê, em có thể gọi Veal Parmigiana, cũng tuyệt lắm. Nhớ gọi một chai vang đỏ nữa, Bolgheri Rosso hoặc Torgiano Riserva. Chắc chắn em và Kate sẽ có bữa ăn ngon... À, có thể tối Chủ nhật anh mới về được, em đừng mong.” Đến đây giọng anh trầm xuống, hơi ngập ngừng. “Tay CFO mời anh lên nghỉ cuối tuần trên nông trại của hắn gần thung lũng Napa. Hắn khoe hầm rượu của hắn có hơn nghìn chai, tha hồ cho anh chọn.”

    “Anh yên tâm. Cuối tuần này Eric đi cắm trại với bạn trên New Hampshire, chỉ có em và Jessica ở nhà. Jessica nhờ em giúp nó hoàn tất bài viết cho lớp Sử của nó về Victoria Clafin Woodhull và phong trào tranh đấu nữ quyền hồi cuối thế kỷ mười chín. Sáng Chủ nhật đi lễ ra em định đi mua sắm ít vật dụng cho căn nhà nghỉ mùa đông của gia đình mình. Còn thời gian em ghé qua văn phòng làm ít công việc trước khi về nhà nấu cơm tối đợi anh về.”

    Vợ chồng anh nói thêm dăm chuyện vu vơ nữa rồi cúp máy. Đặt điện thoại xuống, vẫn chưa đến giờ ăn trưa nhưng anh không quay lại màn ảnh vi tính tiếp tục công việc đang dở dang mà ngồi thừ ra, đầu óc luễnh loãng như vừa hít vào phổi liều ma túy cực mạnh. Anh không còn biết suy nghĩ là gì nữa, từ giây phút này trở đi hình như tất cả mọi hành vi, cử chỉ, lời nói, việc làm của anh đều do một sức mạnh vô hình nào đó thúc đẩy. Gần hai năm nay anh sống với cảm giác bất an, như chờ đợi một tai ương nào đó bất thình lình đổ ập xuống đầu mình và việc gì đến sẽ đến thôi. Định luật Murphy bảo thế. Đã là định luật, nó chẳng bao giờ sai trật. Không, công việc anh chẳng hề yêu cầu anh phải khẩn cấp bay sang San José. Công ty X thua lỗ nặng, bị công ty Y mua đứt từ lâu. Thời của những cơn sốt thị trường đã qua. Thời của cái gọi là dotcom đến như cơn bão và chết ngúm sau thời gian ngắn ngủi gây biết bao sóng gió trên thị trường và để lại biết bao thương tổn. Anh trở lại với công việc nhàm chán viết báo cáo cho khách hàng muốn đầu tư. Thi thoảng, anh tự kiếm lý do bay sang California, công ty không hề thắc mắc; một hai ngày ra khỏi bàn làm việc cộng phí tổn di chuyển, khách sạn chẳng thấm thía vào đâu so với số tiền anh đem về cho công ty.

    Anh bay sang California để tìm cô nhân tình của anh.

Đọc tiếp...

2926. NGỌC BÚT Đọc văn Kinh Dương Vương - Vài truyện thời chiến

Vietnam War - Source: WallpaperSafari

Quận lỵ cách nhà ngoại bảy cây số và có hai đường để đi về nơi đó: một con lộ đất chỉ có thể đi bộ hoặc xe đạp và một con đường nhựa không rộng lắm xe lam có thể chạy được. Những năm đầu thập niên 1960, cả hai lối đi về ấy đều mất an ninh vì bị những người phía bên kia gài mìn và hầm chông dày đặc. Dân thường không ai dám đi theo hai lối ấy. Bé con trở về quận lỵ với cha năm sáu tuổi để đi học sau hơn năm năm ở với ông bà ngoại từ khi mẹ mất. Mỗi lần được theo một người bà con về thăm ngoại trong vùng xôi đậu ấy cũng không khó, nhưng phải đi vòng vèo bằng một lộ trình rất dài: từ nhà ờ quận lỵ đi xe lam theo quốc lộ 1 xuống một quận lỵ khác, rồi từ đó đổi qua một xe lam khác vòng ngược lên một cái chợ xã, xuống xe ở đó và đi bộ khoảng một cây số nữa thì tới nhà ngoại. Quãng đường dài ấy thật ra cũng không an ninh lắm, thỉnh thoảng cũng bị người bên kia ra đắp mô, những dù sao cũng còn đi được và đỡ nguy hiểm hơn hai con đường ngắn kia. Một lần bà ngoại đưa bé con từ quê về lại nhà cha, cũng bằng cach đi vòng vèo ấy. Hai bà cháu ngồi xe lam, chiếc xe lam thời ấy có mái che phía trước của tài xế cong như mái che của xe ngưạ. Xe đang chạy ngon lành thì  “cắc, bùm” , không nhớ súng nổ từ hướng nào, chỉ nhớ bà ngoại năm đó đã ngoài sáu mươi tuổi, nhanh tay kéo bé con xuống núp dưới bờ đất bên dưới đường với bác tài xế và những người khác cùng xe. Dứt tiếng súng, mọi người lại lục tục lên xe đi tiếp, sợ hãi, bơ phờ, xơ xác... Tình trạng ấy kéo dài, ngày càng khốc liệt hơn, quốc lộ 1 dẫn về Sài Gòn ngày càng nhiều bất trắc hơn với những mô đất có gài mìn, nhất là khoảng sau Mậu Thân 1968 cho đến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.  Sáu mươi năm hơn, hình ảnh ấy lại trở về khi cô bé con, là tôi giờ đã là một bà già, đọc lại truyện ngắn “Chuyến Xe” của nhà văn Kinh Dương Vương. Hai hình ảnh không hoàn toàn giống nhau, bối cảnh cũng khác nhau, nhưng có một điểm chung là sự bất an trong lòng, là nỗi lo hiểm họa luôn rình rập trên đường. Đỉnh điểm của bất an là khi một cô bạn học cùng trường ở cùng phố chợ, ngồi xe đò đi Sài gòn sáng sớm ngang qua một cái mô đất bị vướng mìn cụt hết hai chân đến gối. Một chuyến xe khác đi qua một mô đất khác gần đó vào một bữa khác cũng vướng mìn, và ông thầy dạy Pháp Văn bị miểng văng làm mù đôi mắt. Bạn mười lăm tuổi, đóa hoa hàm tiếu xinh tươi, bỗng chốc mất đi đôi chân chim sáo. Thầy mới rời trường đại học sư phạm về trường tôi nhận nhiệm sở chưa tròn năm, trẻ trung phơi phới, bỗng chốc mù lòa! Tôi không có mặt nơi cô bạn cùng trường bị mất hai chân hoặc nơi ông thầy dạy Pháp Văn bị mù đôi mắt, nhưng tôi nghĩ chắc cảnh tượng cũng không khác là bao với những gì được mô tả trong “Chuyến Xe”. Tiểu tiết có thể khác ở từng địa phương, nhưng khuôn mặt chiến tranh thì như nhau. Ở đó, tôi thấy lại những hình ảnh không xa lạ gì với mình tử thuở thiếu thời.

Nhà văn KDV viết :

 Xe rời mặt đường chính rẽ xuống con đường đất chạy vòng qua thửa ruộng lúa chín, mới đắp tạm thay thế chiếc cầu bắc qua con rạch nhỏ bị sập.

Mấy ổng mới giật hôm qua đó Thiếu úy. Anh tài nhìn tôi nói.

Dưới bờ ruộng, một chiếc xe đò lật ngửa, đầu máy hư nát. Trên nền sơn vàng một bên hông, hai chữ “Phúc Hưng” rực lên đỏ chói một cách khôi hài. Chung quanh còn rơi rớt nào quần áo, dày dép lẫn những nén nhang tàn, gạo trắng vung vãi, tro than giấy tiền vàng bạc… Một cái miễu nhỏ mới được dựng lên, gỗ thông ván thùng đạn pháo binh còn mới. Bên trong đặt bình hoa ny-lông và một bát nhang bằng cây chuối cắt khúc.

*

Lúc xe đổ dốc đèo Phước Tượng, từ xa người ta đã trông thấy quang cảnh nhốn nháo chỗ chuyến xe hỏa bị mìn. Đầu máy ngã chúi xuống con lạch nhỏ, những toa sau trật đường rầy, lật nghiêng sang một bên, vài toa văng hẳn xuống ruộng. Các nạn nhân đã được đem đi. Hành khách trên chuyến tàu đang khiêng hành lý, dắt díu, bồng bế, băng qua một thửa ruộng thấp ngập nước, ra đứng lố nhố suốt một khoảng đường, thêm dân chúng quanh vùng đến xem làm con đường bị tắt nghẽn. Xe lam đến rước khách nổ máy vang trời, khói xăng un lên mù mịt. Người ta chen lấn, xô đẩy giành nhau lên xe, tạo nên một cảnh tượng vô cùng hỗn độn.

*

Anh tài xế chỉ cho tôi coi chỗ mặt đường mới được sửa chữa:

- Tuần trước đó. Anh nói, giọng hơi lạc đi. Mới đầu một chiếc xe lam bị, đi bốn mạng. Chiếc xe nhà binh Mỹ tới không dám qua, gọi xe dò mìn. Nhưng đến nơi chưa kịp dò đã cán nổ một trái nữa, đi thêm năm con, vị chi là chín con cả thảy.

Thời gian trong truyện “Chuyến Xe” của nhà văn KDV chỉ gói gọn trong một ngày, nhưng tôi có cảm giác một-ngày-dài-hơn-thế-kỷ với biết bao sự kiện ngồn ngộn trong đó, những sự kiện toàn máu và nước mắt và chết chóc.

Cũng máu và nước mắt và chết chóc là trong truyện “Phiên Chợ”. Sự dữ dội trong truyện không đến từ tiếng súng nổ haynhững bãi mìn làm máu thịt rơi tung tóe, mà từ những hình ảnh lướt qua trong cơn mê man hấp hối của người du kích - những hình ảnh chỉ toàn bi kịch của một phận người nhỏ nhoi u tối trong vùng xôi đậu, bị dẫn dụ đứng về phía bên kia.

(…) Cha mẹ gã, mặt mũi hốc hác, xanh xao như hai xác ma, áo quần rách nát, ướt sũng thứ bùn đen quánh dưới đáy mồ, lỗ mắt, hốc mũi sâu hoắm, đen ngòm. Hai cái đầu chỉ là hai mẩu sọ dừa khô còn bám những sợi tóc bạc. Hai người đến trước mặt hắn run rẩy, khóc lóc, vén mớ vải rách tươm lên chỉ vào hai cái bụng xẹp khô, để lòi hai bộ xương sườn, kêu đói: "Con cho ba mạ xin miếng cơm miếng cháo. Con cho ba mạ xin tấm áo manh quần mặc cả lạnh." Nước mắt gã ứa ra, chảy ròng ròng xuống má. Gã nhớ ra, từ ngày cha mẹ gã nhịn đói nhường cơm cho gã ăn trong năm mất mùa, rồi vì cơn đói mà chết, đã mấy chục năm qua rồi, gã không có chén cơm, nén nhang cúng bái. Gã đau đớn gào lên: "Ba ơi! Mạ ơi! Con bất hiếu của ba mạ đây!" Gã chồm tới ôm lấy hai người, nhưng toàn thân gã đau buốt, ngã quỵ xuống. Cha mẹ gã cúi xuống hôn lên mặt gã. Từ hốc mắt, mũi dòi bọ lúc nhúc rơi ra, bò lổm ngổm. Bỗng hai bóng người dang ra xa, cười lên sặc sụa - những tràng cười dài đầy hờn oán biến thành những mũi tên đen đâm vào tim gã làm văng vung vãi những con bọ tanh hôi lên mặt gã. Hình ảnh hai bóng ma mờ dần. Âm thanh giọng cười rùng rợn trôi xa, vang vọng trong một cõi sương mù đen dày đặc…

 

(…) Thằng Ất mới lên tám với bầy trâu của người chú họ lang thang trong những đồng cát bao la những ngày nắng cháy mùa hè, những chiều mưa tầm tã giá buốt mùa đông… Nó quằn quại kêu khóc trong những trận đòn trối chết khi có một con trâu đi lạc không tìm thấy. Những đêm lùa trâu về muộn không dám hỏi cơm. Nó nằm ngủ trong chuồng với bụng đói trên lưng vật, ôm lớp da lông lá để tìm chút hơi ấm. Người thím dâu đanh đá mỏ dài mồm nhọn với đám con ác độc.

 

(…) Út, người con gái mồ côi cùng xóm đã mang đến cho gã chút niềm tin và hy vọng. Một đêm mưa lũ hai đứa bỏ nhà chủ trốn đi. Nàng đã cho gã con Bê và Cu Lộc… Một quả đạn oan nghiệt đã cướp nàng ra khỏi đời gã. Một buổi sáng ngoài ruộng lúa. Út ngã ra quằn quại trên vũng máu, một bàn tay níu lấy gã, tay kia còn giữ chặt nắm mạ chưa kịp cấy. Nàng kêu tên gã, con Bê, thằng Lộc thảm thiết rồi tắt thở. Những giòng nước mắt nóng hổi của gã tưới đầm đìa lên mặt Út…

 

(…) Anh Năm, người đàn ông trong xóm đến khuyên lơn, an ủi gã, lo lắng chôn cất vợ gã chu đáo. Anh Năm nói những lời dỗ dành hứa hẹn… gã không hiểu anh Năm nói gì, nhưng trong trí tưởng tượng của gã vẽ ra một đời sống tương lai tuơi sáng. Trước mắt gã mở ra một thiên đàng hạnh phúc: gã và các con sẽ sống một đời sung sướng, cơm no, áo ấm, trong sự nhìn nhận và tôn trọng nhân phẩm của con người… Rồi gã bằng lòng nhận lãnh những việc anh Năm giao phó. Gã say mê, tận tâm thi hành với lòng hoài vọng, tự tha thứ…

 

(…) Những oan hồn thi thể không toàn vẹn ùa đến vây lấy gã kêu réo, khóc lóc đòi đền mạng… Lão trưởng ấp cụt đầu đứng sừng sững, tay bưng chiếc nón lá đựng cái đầu lão mắt còn mở nhìn gã trừng trừng. Ở khoảng cổ cụt hơi thở ra phun phì phì, máu sủi bọt reo lên như tiếng cười… Cô Lan có chồng đi lính Quốc gia bị gã hạ sát, tay bồng đứa con bào thai sáu tháng đỏ hỏn nét mặt buồn rầu, xanh xao, nhưng đôi mắt nhìn gã rực lửa căm hờn… Vô số những oan hồn già trẻ mà hắn chưa hề quen biết, đứt đầu, cụt tay, gẫy chân, mất nửa thân mình treo lơ lửng giữa từng không. Có cả vong hồn những đoạn đường, những chiếc cầu, những toa xe lửa, xe đò, xe lam… Tất cả vây quanh gã la hét, kêu gào, nguyền rủa như muốn ăn tươi nuốt sống gã. Gã hốt hoảng, vùng dậy chạy và bỗng thấy mình nhẹ hẫng như một làn khói. Gã la lên: "Tui không biết… Tui không biết… Không phải tui… Người ta xúi tui làm… Tui vô tội… Vô tội… Ối cha ơi… Mẹ ơi!" Gã chạy trốn đám oan hồn, lướt đi trên các ngọn cây, nóc nhà, băng qua vườn tược ruộng đồng, làng mạc, núi đồi, giòng sông chảy qua làng gã đang yên ngủ… Gã lướt đi như một cơn gió mỏng manh yên lặng. Những oan hồn đuổi nà theo gã bén gót. Bỗng giữa tiếng khóc than kêu réo đòi mạng ồn ào, gã nghe giọng vợ gã áo não vượt lên cao: "Ất ơi! Anh Ất ơi! Chờ em với… Anh ơi!" Gã bàng hoàng quay lại, xô ngã đám oan hồn, ôm chầm lấy vợ. Đám oan hồn đông vô số kể ào đến vây lấy gã. Một tay ôm vợ, một tay gã vung lên gạt đám oan hồn ra mở được một lối thoát, cắm đầu chạy miết. Bên nách, vợ gã rền rỉ: "Anh ơi! Con Bê! Thằng Lộc, mô rồi anh? Con chúng ta mô rồi?" Nhưng gã không còn nghe gì nữa, gã mãi lo tìm lối để thoát thân, chạy trốn đám oan hồn đang níu kéo. Trước mặt gã là một cõi tối tăm lạnh lẽo. Gã không còn thấy, còn nghĩ ngợi, gã ôm chặt vợ, lao vào khoảng tối đen mịt mờ…

Lòng nhân ái, sự xót thương bất lực của viên chuẩn úy khi muốn đưa người du kích bị thương nặng lên chuyến bay tải thương nhưng bị từ chối,và hai đứa con của người du kích, bé xíu nhưng hiếu để và ngây thơ trước xác chết của cha, là một sự dữ dội khác. Đó là người du kích đã ném quả lựu đạn làm người lính truyền tin của anh chết ngay, rồi sau đó một tràng đạn M16 của một người lính khác trong cùng toán quân bắn trả, và kết quả là người du kích bị thương nặng. Nó làm tim người đọc nhói đau, không biết phải thương hay ghét người du kích, không biết phải đồng tình với viên chuẩn úy non trẻ muốn cứu người du kích hay viên đại úy dày dạn kinh nghiệm chiến trường muốn bỏ mặc người du kích vì anh ta đã giết (chắc không phải một lần) những đồng đội của ông.

“Đường Kiến”, với tôi, là tận cùng của dữ dội và phi lý của chiến tranh, là sự độc đáo trong phát hiện và sử dụng chất liệu sống để viết thành truyện. Tôi không biết ông KVD tự tưởng tượng ra một câu chuyện như Đường Kiến hay từ một sự việc có thực nào đó. Mà dù nhà văn có dựa trên sự thật hay tự tưởng tượng ra được một câu chuyện như Đường Kiến thì quả thật là xuất sắc! “Thông điệp” mà tôi tìm thấy trong Đường Kiến là: những con vật nhỏ xíu như đàn kiến đã cứu sống con người (người lính VNCH bị lạc giữa rừng già) nhưng con người (người du kích VC) đã giết chết con người bằng những cái bẫy. Ôi con người với con người, nhân danh gì để hủy diệt sự sống cùa nhau?(2)

Mở đầu truyện là những câu chữ đầy ám ảnh:

Khu rừng không giấu nổi bộ mặt tàn nhẫn và thô lỗ. Nó không mang vẻ huyền hoặc quyến rũ của một thế giới chưa tỏ lộ. Màn bí mật bao trùm, che dấu những âm mưu thâm độc.

Nhưng mãnh thú và mãnh cầm không can dự đến việc gây cho chàng cái cảm giác sợ hãi và kinh tởm, mà chính do con người.

Sau một thân cây, trên chòm lá rậm, dưới lớp cỏ mục khô. Mọi nơi,

Một nhát mã tấu

Một mũi tên độc

Một hầm chông

Một viên đạn bắn sẻ,

Cùng tự che giấu và xuất hiện bất thần để làm thành vô tri những thân thể đang chứa chan sinh lực, đưa những linh hồn xanh tươi, chưa hết ngỡ ngàng, trao cho lão già cầm liềm hái, ốm đau nhưng không bao giờ biết mỏi mệt trong công việc

Rồi một ngọn lao tẩm thuốc độc của người phía bên kia trong chớp mắt đã giết Hoàng, người bạn cùng đơn vị cùng lạc giữa rừng già với chàng. Đúng là cuộc đời dài bằng một hơi thở, chớp mắt, như đức Phật đã nói. “Chàng”, nhân vật chính   trong truyện, rơi vào một cảnh ngộ thê thảm cùng đường.

Chàng không còn lường được độ cảm xúc ở nơi chàng. Chàng không còn giữ nổi ý niệm về sự phân cách tuyệt vọng giữa cõi sống và cõi chết. Giữa hai cõi đó không còn một giới hạn rõ ràng nữa. Chàng lầm lẫn. Chàng tự hỏi: “Ta đang sống hay đã chết?” Và điều đó đối với chàng chẳng có gì quan trọng. Nếu biết rằng chàng đang sống, chàng cũng không vui gì hơn khi biết mình đang sống trong cõi chết. Chàng sờ vào cái xác Hoàng cứng đơ, lạnh ngắt. “Xác Hoàng hay xác ta? Hoàng đã chết thật hay Hoàng đang yên ngủ?”. Nhưng ngọn lao tẩm thuốc độc xuyên qua hông Hoàng kéo chàng ra khỏi cơn mộng. “Hoàng thực đã chết rồi”. Thuốc độc đã thấm vào thân thể Hoàng, cướp lấy sự sống của Hoàng một cách nhanh chóng. Chỉ bằng một chớp mắt. Cõi sống và cõi chết được phân định sau một cái chớp mắt. Người ta không lường được. Người ta không ngờ được và tưởng chừng như chàng đang nằm mơ. Nhưng giấc mơ khi tỉnh dậy không thay đổi. Đó là sự thật.

Chàng đã nghĩ, mình cũng sẽ chết đớn đau chết dần mòn vì đói khát. Nhưng đàn kiến, dấu hiệu của sự sinh tồn, đã cứu chàng. Chàng cố bò lết theo đường đi của đàn kiến đang mang vác từng hạt cơm từ gói cơm của một người du kích chết vì sụp hầm chông của chính đồng đội anh ta. Chàng đến nơi, cái hầm chông ấy, cùng đàn kiến. Chàng ăn nửa gói cơm gói bằng lá chuối đã bắt đầu có mùi thiu giắt bên hông xác chết người du kích. Chàng uống một phần nước còn lại trong ống tre của người du kích. Chàng hồi sinh diệu kỳ. Và chàng trả ơn người du kích bằng cách đào huyệt chôn anh ta, một chi tiết rất nhân bản.  Chàng làm việc này mà không câu nệ bạn hay thù. Khi rời xác Hoàng để tìm đường sống, chàng yếu ớt vì đói khát đến nỗi không đào nổi một cái huyệt nông cho Hoàng, đành lấy lá phủ lên xác bạn, tự an ủi rằng dù sao thân xác Hoàng nằm lại cũng còn có một “lợi ích cuối cùng” nhờ cái vòng tuần hoàn sinh học trong cõi người.

Hoàng chết rồi, ta yếu đuối không thể chôn cất Hoàng tử tế được. "Những chiếc lá khô nầy, che dấu mày. Hoàng ơi! Ta cầu mong rằng sẽ không có một con cọp đói đi qua đây. Thịt xương mày rồi sẽ rã mục ra trong đất. Từ đó một đám cỏ xanh hay một giống hoa nào sẽ mọc. Những con ong đến hút nhụy làm mật. Mật sẽ nuôi sống một con gấu. Đó là sự lợi ích cuối cùng mày để lại trên mặt đất nầy…”

Bi kịch là chàng hồi sinh nhưng không được sống tiếp tục để trở về với mẹ với vợ con, như trong cơn mơ mệt nhọc giữa rừng lúc chàng lịm đi vì quá đói khát. Chàng chết trong lúc cúi xuống xác người du kích để bỏ vào túi anh ta gói giấy tờ ghi lai lịch anh ta. Và mìn nổ. Và chàng tan xác, với một bàn tay có đeo chiếc lắc bạc có chi tiết về nhân thân của chàng vắt lên cành cây. Nhưng bi kịch chưa chấm dứt ở đó. Bi kịch khủng khiếp hơn là thân phận thực sự của chàng bị đảo ngược vì sự tắc trách và vô tâm của người viết tin trên báo chí sau đó: nhân thân của chàng bị thay đổi, chàng trở thành cái xác du kích thứ hai. Như vậy chàng đã chết hai lần. Đất trời mênh nộng, ai cải chính giùm chàng cái thân phận này! Chỉ trời đất biết, cỏ cây biết, nhưng trời đất cỏ cây không biết nói...

Truyện nào của KDV cũng dữ dội, và đôi khi kỳ dị, nhưng không phải chỉ có những chuyện trực diện về chiến tranh. Các mối quan hệ giữa con người với nhau trong thời chiến cũng quá xa khỏi mức bình thường trong truyện của KDV, và có khi rất tàn nhẫn. Trong truyện “Thầy Thích” , mấy gã lính Mỹ hành hạ một em bé chỉ để làm trò vui. Đứa bé sắp chết. Thầy giáo Thích can thiệp, dù yếu thế vẫn đánh nhau với bọn lính Mỹ để cứu đứa bé. Thầy bị săn đuổi, trốn trên căn gác của mẹ. Và thảm kịch xảy ra.

Trên căn gác Thích nghe rõ mọi chuyện, lật đật nhớm người lên thò đầu ra ngoài cửa sổ. Từ đó anh có thể lòn người qua, nhảy xuống nóc chuồng heo rồi phóng ra vườn chuối sau nhà trốn đi. Nhưng anh vừa lòn được nửa người ra ngoài thì hai gã lính Mỹ bố trí bên hông nhà trông thấy. Một loạt đạn nổ dòn, tiếp theo ngay tiếng lựu đạn chát chúa, miễng văng lên mái tôn ào ào như rải sạn. Thích đứt lìa làm hai khúc. Nửa thân lòn ra ngoài nát vụn, phần còn lại phía trong rơi xuống sàn căn gác tối om.

Gã lính Mỹ vừa dợm đặt chân lên thang lầu, nghe tiếng nổ vội nằm xuống rồi vùng chạy ra. Hai gã gác ngoài vừa làm xong nhiệm vụ khoác tay nói:

- Xong xuôi. Tốt! Họ bấm đèn dọi lướt qua soi bức tường tung toé máu tươi, chảy xuống từng dọc, đọng lại ở chân tường. Trong chuồng, tiếng kêu ư ử của con heo bị thương lẫn trong tiếng nhai xàm xạp. Chung quanh xóm, mọi nhà đều tắt đèn đóng cửa kín mít.

Sáng hôm sau, người ta lùa mấy con heo mỏ đỏ máu ra khỏi chuồng. Đến trưa nửa phần thân thể còn lại của Thích, sau khi chính quyền đến làm biên bản, được đem xuống tẩm liệm với mấy mẩu xương vụn heo gặm còn sót lại trong chuồng, cùng một manh áo sơ mi rách nát đẫm máu và phân heo. Người lấy xác là bạn thân của Thích. Anh kể chuyện, trước khi đem xác bạn xuống anh có khấn vái xin phép vong hồn thầy giáo Thích. Vừa dứt lời thì từ trong nửa cái xác đã cứng lạnh máu tươi chảy ra lênh láng.

Điều kinh khủng là những con heo đã ăn phân nửa xác của thầy Thích bị rơi xuống. Người trong xóm nhiều ngày sau đó không dám ăn thịt heo... Điều nghiệt ngã nhất trong truyện là: thầy Thích có cha bị Việt Cộng chặt đầu, thầy bị lính Mỹ giết một cách thảm khốc, em gái thầy (cô Cúc) “nhảy núi” theo VC để trả thù cho thầy và mẹ thầy mất trí nói lảm nhảm suốt ngày sau cái chết của thầy. Cả một gia đình tan nát.

Hình như với nhà văn KDV, chiến tranh là nguồn cơn của mọi bi kịch. Ở đó nhiều lúc cái “con” lấn át cái “người” trong một con người và trong những con người. Truyện “Những Chiếc Mặt Nạ Cười”, “Phiên Tòa” và “Lão Hạ” cho thấy rất rõ điều này. Trong các truyện vừ a kể, các nhân vật chính ban đầu đều rất “người” nhưng càng về sau đều trở thành “con”. Trong “Những Chiếc Mặt Nạ Cười”, cậu học sinh trung học Thanh mơ mộng hiền lành ngày nào, từng ước mơ trở thành nhà thơ, đã biến thành tên thẩm vấn viên ác quỷ ở trại giam. Trong “Phiên Tòa”, cùng đồng cảnh ngộ lao công đào binh trong trại giam, nhưng hai kẻ có vị thế mạnh hơn một chút, một chút thôi, đã hành hạ không thương tiếc những người bạn tù yếu thế hơn. Còn lão Hạ, nhân vật chính trong truyện cùng tên, là một trường hợp dị kỳ (thực ra, trong hầu hết các truyện ngắn của KDV đều có ít nhiều yếu tố dị kỳ, và chính nhờ vậy mà truyện ông rất lôi cuốn). Lão Hạ là một người xẻ thịt heo và là người bán thịt bình thường. Thị xã của lão bị cô lập do các trận đánh liên miên, nguồn thực phẩm bị cắt đứt, dân trong thị xã bị đói kém trầm trọng. Đây là cơ hội để lão nẩy ra ý tưởng làm một việc vô tiền khoáng hậu: xẻ thịt xác người chết vì chiến tranh bị đánh cắp từ quân y viện và bán ra với “nhãn mác” thịt heo trong cửa hàng thịt của lão! Tất nhiên lão bị bắt khi sự việc bại lộ. Tất nhiên lão phải ra tòa, nhưng với một nhân dạng rất tiên ông đạo cốt rất “người”, trong khi việc làm của lão thì rất “con”. Tòa án chưa xử xong thì lão Hạ đã chết vì bệnh. Trước khi chết lão viết một bức thư dài gửi lại cho tòa

Bức thư lê thê của lão Hạ gửi tòa án với những suy tư về chiến tranh, về những vấn đề lớn và mang tính “hàn lâm” khác, có vẻ không không phù hợp lắm. Không riêng gì truyện Lão Hạ, trong hầu hết các truyện của KDV, ông thường cho các nhân vật  “phát ngôn” kiểu ấy và hay nói “triết lý”, một kiểu suy nghĩ và phát ngôn không phù hợp với tính cách, nghề nghiệp, giai tầng xã hội của họ. Có vẻ như nhà văn nghĩ và nói chứ không phải nhân vật nghĩ và nói. Với tôi, đây là một điểm trừ ,dù truyện ngắn của KDV rất hay nhờ tính dữ dội, dị kỳ và độc đáo. Phải, dữ dội, kỳ dị, độc đáo, và lôi cuốn. Đó là chưa kể ông có những đọan tả cảnh đẹp như tranh vẽ, có lẽ vì ông còn là một họa sĩ.

NGỌC BÚT
Sài Gòn, 15.12.2022

(1) Tất cả các đoạn văn in nghiêng là trích đoạn từ các tác phẩm KDV

(2(2) Thơ NB 

Friday, June 2, 2023

2925. NGƯỜI ĐÀN ÔNG THÁO MỞ HẾT MỌI THỨ Truyện ngắn của nhà văn Úc NICK ROGER CLARKE NGU YÊN dịch và giới thiệu

Photo by Ivy Yung


Lời người dịch:

Đây là một trong số nhà văn trẻ đang tạo tên tuổi trên diễn đàn văn chương thế giới, được các nhà phê bình và độc giả chú ý. Chúng ta tìm hiểu những nhà văn trẻ hiện tại mới nổi lên là tìm hiểu giọng văn, phong thái diễn đạt, và ý tứ của thời đại hôm nay.

Mỗi thời đại có giọng nói riêng, cách diễn đạt ý tứ và ngôn ngữ của thời đại đó với nét độc đáo cá nhân của mỗi nhà văn. Ví dụ, hôm nay với ảnh hưởng của lối suy nghĩ và viết trên emails, text trong điện thoại, cách diễn tả trên facebook, văn chương thế giới mang một hình thức ngắn gọn, rõ ràng, luận lý chặt chẽ, nhưng không phải hờì hợt. Những đề tài và nội dung có thể hóc búa, sâu sắc, nhưng không mơ hồ như một số lớn các phong trào văn học phối hợp nhiều tưởng tượng trong thế kỷ 20.

Nick Roger Clarke viết văn, quay phim video, chạy Marathon. Sinh quán ở Melbourne, Australia.

Tuyển tập truyện đầu tiên: Positive Reinforcements for Negative People, năm 2018. Truyện của ông xuất hiện trên các tạp chí văn chương thế giới.

 

Nhà văn Nick Roger Clarke

Truyện Ngắn

NGƯỜI ĐÀN ÔNG THÁO MỞ HẾT MỌI THỨ

Một ông già tầm thường ngủ trên băng ghế dài bằng kim loại ở cuối dãy phố trong vùng ngoại ô. Không có gì để nhận ra anh là ai, ngoài trừ bộ tua vít bên trong túi áo khoác dày.

Trong thời gian ngắn, ông làm cho chiếc ghế thêm vững chải, và những gì chung quanh nó, trở nên lỏng lẻo.

Hơn nữa, phẫu thuật tháo gỡ các đinh ốc trong dãy phố hoàn toàn ẩn vào bí mật.

Nhưng hiện tại, ông đang mơ là một cậu bé băng qua con sông ở dãy núi Alpine.

Đá dưới lòng sông va chạm nhau như những viên bi nhộn nhịp bên dưới và nước dâng cao theo từng bước chân cậu đang lội.

Giữa sông mực nước cao đến eo, nơi nắng rực xuyên qua nước, cậu dừng chân đứng ở đó, chiêm ngưỡng cần tre mới tinh với  con mồi giả, tất cả đều là thủ công của cậu. Thích thú chiếc áo vét hữu dụng nặng nề với những chiếc túi chứa đầy mồi nhử, móc câu và con nhộng. Thích thú sự chuẩn bị đầy đủ khi mút một hơi ống hút cắm vào hộp nước trái cây đựng trong túi trước ngực.

Thích thú vì kiên quyết đứng giữa dòng sông, sức kềm chế đối với dòng chảy của thế giới tự nhiên và sức kháng cự khi luồng nước đẩy mạnh về hướng cậu, quấn chung quanh rồi xuyên qua.

Nhưng hôm nay không có cá hồi.

Cậu bé lúng túng, luộm thuộm với lòng thất vọng, khi đứng trên bờ thảy từng viên đá xuống nước, khi mỗi chiếc lá, cành cây rơi rụng khuấy động mặt sông.

Dòng nước chảy xiết sau trận mưa lớn suốt đêm qua, cậu nghiêng mình theo nước đẩy, một chân trước một chân sau, nước dâng cao ngang rún. 

Hai người bơi tung tăng trên sông, không quan tâm những gì thay đổi.

Rồi cậu nghe, tiếng rầm rộ như trăm ngàn vòi sen tuôn nước cùng một lúc, đang tiến tới như  đoàn tàu chạy đến từ khúc quanh.

“Đừng bơi nữa, chạy lên bờ!” cậu van xin những người đang bơi, họ nhún vai, mặc kệ, cậu bé này hoang tưởng.

Một trận lở đất dữ dội làm bật gốc cây, đá và nước chảy ầm ầm ở hạ lưu, cuốn mất hút cần câu và mũ của cậu.

Mực nước lên đến ngang ngực, ra sức hai tay bơi ngược lại, rồi chiếc áo vét và sơ mi phía trước rách toạc.

Bây giờ trên người chỉ còn quần yếm, hai tay bám vào một cành cây nhỏ, chân đạp ra sau, toàn thân dang ra như bức tường mọc lên trước mặt.

Sức kéo liên miên của cơn lũ làm đứt dây cột trên vai của quần yếm, rồi tuột  khỏi thân người. Cậu trần truồng nằm ngang lướt trên mặt nước. Tay vẫn níu cành cây cho đến khi kiệt sức, đành thả ra.

Tiếng đập đầy ác mộng của những tảng đá dưới lòng sông kết hợp với thảm trạng một cánh cửa lá sách bằng nhôm, trong khi ông già nằm rên rỉ, xoay trở trên băng ghế.

Cô quản lý quán cà phê bánh mì dí điếu thuốc vào thùng rác hình trụ trên tường trước khi quay trở lại bưng chồng ghế ngồi ngoài trời.

Người đàn ông quan sát khung cảnh quen thuộc hàng ngày qua đôi mắt híp. Cũng những người mua hàng buổi sớm này ra vào cùng một cửa hàng để mua những sản phẩm giống như đã mua.

Nhưng mọi suy nghĩ ngủ lại chỗ này lập tức bị dập tắt: mẩu thuốc lá cháy âm ỉ trong thùng rác sút một con ốc lỏng lẻo, bị tháo ra hai phần ba khỏi đồ chưng trên tường.

Vươn vai, ngáp dài, rồi một động lực gia tăng năng suất xô đẩy ông làm chân tay sống động, dáng lom khom lê chân về phía nhiệm vụ với bàn tay đút trong túi. Những ngón tay mân mê trên đầu những tua vít cũ.

Không có gì lạ khi ông này tự đặt mình vào những công việc như vậy, mà không cần ai nhờ vả hoặc sợ phiền phức. Vì vậy, sân ngồi bên ngoài quán cà phê bán bánh ngọt; sạp bán trái cây với các đệm gỗ xếp chồng lên nhau; bảng chỉ dẫn và cửa ra vào của cửa hàng tạp hóa, cùng với cả chục thương nghiệp nhỏ chung quanh, thường xuyên có những con vít bị tháo lỏng lung lay.

Ông sử dụng cây tua vít như bộ phận ống cứng nối dài cánh tay. Việc vặn con vít ra rồi vặn vào lại ngang với mặt tường, không mất bao nhiêu thời giờ.

Vậy mà khi ông lùi ra phía sau nhìn chăm chú, cảm giác không hài lòng đuổi theo.

Không thể xác định nguồn gốc của cảm nhận, ông cúi xuống một lần nữa, kiểm soát việc đã làm để tìm hiểu nguồn gốc của cảm giác không vừa ý. Cúi đến gần thùng rác đến nổi mũi sắp chạm vào.

Ông lầm bầm: “Đinh vít vặn vào đúng rồi. Làm quá tốt. Tại sao lại bất mãn?”

Tò mò muốn gỡ rối những thôi thúc trong nội tâm, cách duy nhất là tháo vít ra lại.

Ông làm liền và cảm giác hài lòng quen thuộc khơi dậy trong lòng.

Bị lôi cuốn bởi suy nghĩ về những điều trừu tượng và quết tâm thử nghiệm, ông dành thời giờ còn lại buổi sáng tháo từng chiếc đinh mà ông đã vặn chặt trong nhiều năm, cả dãy phố có lẽ khoảng 40 con vít.

Khách hàng cũng như chủ hàng luôn luôn cố tránh ánh mắt của ông và phủ nhận ông đang hiện diện. Nhưng vài năm trước, ông này có nhà có giường ngủ để nghỉ ngơi vào buổi tối.

Cà chục năm ông thuê ngôi nhà trong phố Victoria gần đó. Sau ngôi nhà đổ nát là một kho hàng dựng bằng ván ép cong có hình dạng nhìn sâu như đường rầy xe lửa, đây là một thế giới náo động thu nhỏ do một mình ông vất vã dựng lên.  

Nâng cao đến thắt lưng, phía trước một cảnh phong nền bằng màu nước, vẽ đường chân trời, thành phố và những ngọn đồi chung quanh. Các mô hình lớn về các địa danh đáng quan tâm được mở ra: tòa thị chính được trang trí công phu với  những cột bê tông nứt nẻ, nhưng bên trong trưng bày lộng lẫy các tác phẩm nghệ thuật được yêu chuộng, một tòa nhà cao chót vót, có cửa sổ nhìn xuyên qua, thấy người ta sống yên ổn bên trong những căn hộ đầy đủ tiện nghi, và một dãy phố bận rộn người mua sắm qua lại một cách hài hòa.

Dán bằng thuốc nhỏ mắt, được bảo đảm bởi tua vít tí hon, sơn rất tinh tế dưới kính lúp mang trên đầu, nối dây bằng cây nhíp, tác phẩm trở thành nghệ thuật.

Giữa các bộ sưu tập các tòa nhà, một mạng lưới rộng lớn có nhiều bãi cỏ, những khu rừng xanh, những vườn hoa màu, và dưới mỗi gốc cây nhựa lẫn lộn nhiều lá nhỏ. Một dòng sông sâu lung linh,  gợn sóng, uốn mình giữa toàn bộ khung cảnh.

Nhưng tâm điểm trưng bày chính là những tàu lửa, di chuyển với tốc độ điều đặn qua sự kết hợp những cây cầu rỉ sét, những khúc cua ngoằn ngoèo, và những đường hầm bí ẩn, mà ông này, thường không hãnh diện gì, xem mỗi con tàu như thể đại diện cho mỗi tính tình đặc biệt của ông: đầu máy hơi nước cũ hú còi biểu thị chủ nghĩa khắc kỷ; con tàu dài chở hàng chạy bình bịch thể hiện sự kiên tâm; chuyến tàu chở hành khách mỗi ngày không quyến rũ, với lịch trình và thông báo ga đến, với hệ thống thắng ken két rít lên, với tiếng bíp khi cửa mở đóng, thể hiện sự đáng tin cậy.  

Mặc dù không có khả năng xây cất và ít tài khéo léo, ông đã bắt đầu một dự án, tự thiết kế, chế tạo, và bảo trì mọi thứ.

Mỗi cuối tuần, từ rạng đông cho đến chạng vạng, mỗi khi rảnh rỗi sau giờ làm việc, ông lui về nhà kho đồ án của mình, lấn qua cánh cửa, bò về phía ghế xoay ở trạm điều khiển có cửa tròn nhỏ quan sát, nơi có thể tuần tra 360 độ.

Ông sử dụng nhiều tháng trong năm, bò bên dưới cảnh ba chiều, gồng cổ  để cắt, hàn, hoặc nối dây vào vào các bộ phận khiến các ngón tay hơi gù lên và đau khớp xương. Đây là công việc đầy mồ hôi, tỉ mỉ, và đôi khi ngột ngạt, nhưng đã rèn luyện tính kiên nhẫn phi thường, ông thừa nhận là một đức tính lớn hơn những bệnh tật.

Thường ngồi một chỗ, khoanh tay trước ngực, mắt nhắm nghiền, để ý thức theo dõi quan cảnh âm thanh của các con tàu đi và đến.   

Nếu bao giờ có bạn đồng nghiệp hỏi ông vì sao lại dùng hết những ngày nghỉ cuối tuần theo kiểu này, ông bày tỏ ước ao thành thật của mình, “chỉ muốn sử dụng đôi tay.”

“Vào thứ Sáu tuần này lúc uống rượu sau giờ làm việc, tất cả chúng tôi đều muốn xem thật kỹ đầu máy tàu lửa nào anh yêu thích,“ chủ của ông từng nói như vậy, bày tỏ sự quan tâm đến người đàn ông đặc biệt này.

Nhưng đến lúc đó, rõ ràng chỉ là trò chiêu dụ ông tham gia để trở thành cái mông bất đắc dĩ cho tất cả đám người say xỉn. Đoàn tàu của ông chỉ chạy lui tới trong quán để chở tiền mặt của nhân viên. Người chủ trình diễn tuồng kịch hỏi han ông những câu hỏi liên quan đến công việc cuối tuần  và đã biết rõ ông không thể trả lời. Không được đào tạo từ đại học kinh doanh, hoặc về bất cứ thứ gì, như là các đồng nghiệp. Ông đành phải trốn trong phòng vệ sinh cho đến khi họ không còn hứng thú gì về đoàn tàu lửa, ông mới lén lấy nó rồi chuồng về.

Vì vậy, phần chính của cuộc đời ông này, tìm được sự ổn định cho bàn tay, nhưng tâm tư liên tục bất an. Việc này từ từ thành hình thấm qua thế giới nhỏ nhoi và trong sạch của ông. 

Một buổi chiều, ông thừa nhận thế giới này hoàn hảo. Cuối cùng, ông đã hoàn thành.

“Mặc dù, việc đó phải trả giá bằng mất tình bạn, chi tiêu số tiền đáng lẽ dùng cho những hưởng thụ khác, hoặc du lịch, chính xác đây là phẩm vật trong trí tưởng của tôi gần mười năm trước.”

Trong khoảnh khắc đó, ông hiểu ra, một ý nghĩ đơn thuần, với nhiều hành động tiếp theo và hành động tiếp nữa, đan nhập pha lẫn vào nhau đến mức tưởng tượng sẽ trở thành hiện thực.

Đã trải qua những tình cảm sâu sắc, để ghi nhớ những cảm xúc này, ông dành mọi chuyến tàu, tòa nhà cho những người mà ông yêu mến trong đời, ông đã khắc và dán những mảnh nhỏ để tôn vinh họ.

Rồi người chủ nói, ông không còn cần thiết ở sở làm. Không phải là chuyện ngạc nhiên sửng sốt cho bất kỳ ai, tối thiểu là đối với ông. Đã cảm thấy bối rối, bị tẩy chay bởi các đồng nghiệp nhiều chuyện. Không tiết kiệm, không tài sản. Không còn cách nào giải quyết ngoài việc yêu cầu chủ nhà gia hạn tiền thuê thêm nhiều năm.

“Ông có mô hình đường rầy ba chiều trong nhà kho ván ép của tôi…” Người chủ nhà chỉ về hướng đó và đồng ý cho thuê miễn phí trong hai tháng, để đổi lấy toàn bộ đồ đạc trong nhà kho.

Chủ nhà nhận xét: “Cuối cùng rồi những dàn dựng này không có giấy tờ cho phép.” 

Ông phản đối rồi yêu cầu chủ nhà để ông có thể nỗ lực tìm việc làm. Khi không được chấp nhận, ông cố gắng tìm kiếm người thích hợp để bảo tồn toàn bộ đường rầy.

Nhưng hai tháng đến cuối hạn, chủ nhà đón tiếp một số đông người nhiệt tình với các đồ phụ tùng tháo mở, vào một buổi chiều. Mỗi kẻ cướp phá dùng dụng cụ riêng của họ. Bắt đầu hành hiệp ngay lập tức. Tháo gỡ bất kỳ phần nào theo ý họ thích, không quan tâm đến toàn bộ.

Việc tháo gỡ từng đường rầy, từng bảng hiệu, từng con ốc, linh hồn của cảnh ba chiều đã bị xử lý bởi những đâm thọc, cho đến khi thành một đống vụn.

Ông lặng lẽ theo dõi, lựa trong rác những dụng cụ còn sót lại cất vào túi áo khoác, rồi bỏ đi. Thế giới phức tạp hoàn hảo của ông đã biến mất một cách nhanh chóng. Dường như nó vẻ vĩnh viễn rồi thật ra mong manh, vô nghĩa biết bao.

Các giấc mơ của ông về những chuyến tàu chạy ầm ì dọc theo đường rầy phù hợp với tiếng rèm lá sách của cánh cửa quán cà phê bánh mì, khi ông nằm nghiêng trên ghế dài. Tuy nhiên, lần này, cánh cửa hạ rèm xuống, cô quản lý ngậm điếu thuốc trên môi,  biến mất vào cuối phố. Ngày buôn bán đã kết thúc, một đêm dài đang chờ đợi.

Ông rên lên khi nằm nghiêng một bên, con ốc vít kim loại sột soạt chạy từ bên này sang bên kia trong túi vải lót ny-lon trong áo khoác, tạo thành một giàn chung quanh xương sườn, lót bởi xấp giấy vệ sinh xếp lại hình vuông. Dùng những ngón tay sưng vù ôm lấy ngực, nhắc nhở mình vế chiến tích buổi sáng.

Việc tháo con vít đáng sợ, ở nơi này, ở đàng kia, ra khỏi những thứ đã an toàn, không làm thay đổi độ bền chắc của chúng. Mặc dù, trong chiếc áo khoác rách nát, nhiều tiếng kêu lục cục. lách cách, càng ngày càng gia tăng mỗi khi di chuyển, ông linh cảm, không ai thèm chú ý đến ông. 

Khi người ta thực sự muốn tìm đinh vít ở nơi nào, chúng xuất hiện khắp nơi: mái hiên bằng tôn che hết chiều dài của dãy phố; những hộp đèn treo dưới nóc che vải; cột và bảng chỉ đường; những con số đường phố; quạt hút hơi nóng trên tường; điện thoại công cộng; các bảng chỉ dẫn và đèn nhạy biến của các tiệm tạp hóa tư nhân; Những bộ bàn ghế, dù che, bảng thực đơn trên tường ở ngoài trời của quán cà phê bánh mì; các bản lề cửa và nắm cửa cuốn lên xuống; những nơi phun nước uống; các hộp công tơ; các hộp chậu cây và nơi xe buýt ngừng đón khách. Mặt bên ngoài nhìn thấy an toàn như thế nào, ông đắn đo suy nghĩ, không thể nào hòa hoãn với sự giả dối trong hành trình khi cần xuyên qua thế giới  

Rõ ràng bài tập buổi sáng không hơn gì một khuôn khổ, như một khái niệm lớn có thể dựa lên để thực hiện: Đêm nay, ông sẽ tháo hàng trăm ngàn con vít.

Đêm nay, ông sẽ tháo mở số lượng vít cần thiết chính xác để dãy phố duy trì hoạt động và an toàn, nhưng sẽ không nữa.

“Không một ai đến nơi này để bị lừa gạt như tôi.”

Ông quen thuộc với bóng tối đang phủ xuống dãy phố. Ánh sáng cây đèn đường đơn độc kết hợp với những hộp đèn màu trắng buồn tẻ và chiếc điện thoại công cộng màu cam. Đèn nhạy cảm của cửa tiệm tạp hóa dường như hứa hẹn sẽ nhập bọn. Thường thường nó là người bạn duy nhất, nhưng đêm nay lại là nhược điểm.  

Với đồ bản đã vạch sẵn trong đầu, ông bắt đồng công việc ngay giữa con phố.

Dưới mái hiên của cửa hàng bán tạp hóa, ông cương quyết đứng lên hai hộp gỗ đựng trái cây đã vất bỏ, ông nới lỏng bộ phận nhạy biến của đèn rồi chĩa nó thẳng lên trời. Ông hoạt động trên lối đi bộ, bây giờ, bị che khuất bởi tòa tháp căn hộ hội đồng lù lù hiện lên.

Trong khi ở ngoài cửa hàng tạp hóa, ông dùng tua vít lớn nhất để tháo tất cả trừ một trong những đinh vít giữ mái hiên tôn vào các thanh gỗ. Ông sẽ lập lại hành động này ở mỗi cửa tiệm.

Tháo lỏng hết mọi phía hộp đèn mờ hình chữ nhật của tiệm tạp hóa, giống như từng bộ phận của nó phát nổ, ánh sáng đèn thường tràn lọt ra hai bên. Trong khi, tháo con vít bên trên của hai con số đường, do đó, những con số rơi xuống nằm ngược đầu.

Đèn pha chiếc xe hơi chạy cua góc phố, ông đứng bất động trên hộp gỗ. Xe ngừng, tắt máy, một gia đình trẻ bước ra khỏi xe. Họ rảo bước về phía căn hộ hội đồng. Một lần nữa, ông cố bình tĩnh để bàn tay được ổn định.

Di chuyển đến tiệm bán trái cây, sửa sang lại sạp bán vốn rất lộn xộn, thành một con tàu đắm móp méo.

Trong khi ông đang tập trung một cách điên cuồng, những đinh vít rơi xuống leng keng trên nền đá cẩm thạch nhiều màu và tiếng leng keng từ con heo đất cất tiền của trẻ con, bị lắc ngược trên sàn lót vải sơn.

Những đồ phụ thuộc vào khu phố cũng bị điều chỉnh, các bảng đường đột nhiên treo theo đường chéo; Những hộp trồng cây tưới nước của hội đồng đang chảy đầy bùn đất trên lối đi qua mọi góc gỗ khung gỗ; và chiếc điện thoại công cộng, chân đế bằng thép chùng xuống, đong đưa trong gió như chiếc du thuyền với chiếc đèn lồng màu cam.

Tiếp theo, ông sữa đổi quán cà phê bánh mì, những chiếc dù xếp nhàu nhò giống đám chim gãy cánh, các bảng thực đơn dán tường nhìn thấy như một nửa tan chảy.

Cuối cùng, hộp đựng thuốc lá được tháo hết chỉ còn một vít. Nó lắc lư trơn tru như say sóng đến nổi chỉ cần chạm nhẹ cái mông của cô quản lý, sẽ lật úp đổ hết thuốc lá xuống mặt vỉa hè.

Ông tự nhủ: “Tôi đã làm xong rồi.”

Con chim ác là bay vòng tròn trên đầu, khiến đèn nhạy biến của tiệm tạp hóa đang hướng lên trời chớp sáng  và lập lại, nhưng chuyện đó, giờ đây,  không còn đáng lo lắng.

Mặt trời buổi sáng ló dạng chiếu ngang đường chân trời để thu hút mớ ánh sáng hỗn độn đang rải rác trên con phố. Cơn gió mạnh lướt qua, mọi thành phần cấu trúc của dãy tiệm quán mỏng manh rung chuyển một cách quái dị.

Ông tập tễnh bước đến chiếc ghế dài bạc màu, chân lội qua đám ốc vít như biển, những ngón tay sưng vù, lưng khom đau nhức.

Hình hài nhàu nát của ông thảy dài lên băng ghế như vớ được chiếc bè cứu tinh.

Khi đang ngủ một giấc sâu đắm nhất trong cuộc đời dài của ông, chuyến tàu thường xuyên buổi sáng chạy qua gần dãy phố, những công nhân không biết gì về tất cả những gì đã xảy ra ở đây tối hôm qua.

Những toa giường ngủ trên đường rầy kêu ầm ầm trên mặt đất, những rung động quen thuộc xoa dịu ông rồi trở nên rối nùi trong giấc mơ.

Khi tàu đến gần, mọi con vít trong các cây đà xây dựng, các kệ chứa hàng, máy tính tiền, mà ông không đụng đến tối hôm qua, bắt đầu rung rinh vặn vẹo.

Eltham, Victoria, Úc. 

NGU YÊN dịch từ nguyên tác Tiếng Anh
THE MAN WHO UNSCREWS EVERYTHING