Monday, December 9, 2024

3661. PHAN TẤN HẢI Nhà thơ Rohingya chạy ngàn dặm ra khỏi xứ Phật.

Nhà thơ Mayyu Ali (Photo: Facebook)
 

Nói như thế là hơi cường điệu, nhằm nêu lên điểm bi hài. Không phải chạy ra khỏi xứ Phật, nhưng là chạy trốn khỏi bạo lực của chính phủ quân phiệt Miến Điện, khi sắc dân thiểu số Rohingya năm 2017 bị tấn công, đốt làng, xua ra khỏi biên giới vì chính phủ Miến Điện gọi họ là người Hồi giáo Bangladesh. Cũng  không xa tới ngàn dặm, chỉ 600 dặm là Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã dựng lều trại cho tạm cư hàng trăm ngàn người Rohingya chạy vào Bangladesh.

Câu chuyện tỵ nạn này vẫn còn kéo dài cho tới năm nay, 2024. Mới mấy tuần trước, trong tháng 10/2024, hàng trăm người Rohingya đã đi thuyền vượt biển tới phía Bắc Indonesia, hy vọng tới Malaysia. Trong đó, nhiều người đã thoát nạn diệt chủng ở Miến Điện và thoát điều kiện sống gian nan trong các trại tỵ nạn ở Bangladesh. Nhiều người lên ghe còn có ý muốn đoàn tụ với gia đình đã định cư ở Malaysia,

Trong những người Rohingya chạy thoát hồi năm 2017, có một chàng trai sau này trở thành một nhà thơ nổi tiếng: Mayyu Ali. Tuy rằng chính quyền quân phiệt Myanmar xem sắc tộc thiểu số Rohingya cần bị đàn áp và trục xuất, phần lớn giới văn nghệ sĩ Miến Điện vẫn xem Rohingya như người trong nhà, bất kể tôn giáo dị biệt, vì các sắc dân này sống bên nhau đã nhiều thế kỷ.

Trên báo GlobalPost, ấn bản ngày 1 tháng 10/2019, ghi lại chuyện những đêm đọc thơ bí mật ở thành phố Yangon, nơi một số nhà thơ Miến Điện muốn làm cầu nối giữa các nhà thơ Rohingya (đã lưu vong năm 2017) và các nhà thơ Miến Điện còn ở Yangon, thành phố lớn nhất Miến Điện. Lúc đó, nhà thơ Mayyu Ali đang ở xa 600 dặm, trong trại tỵ nạn Cox’s Bazar, ở Bangladesh. Đêm đọc thơ đó là tháng 6/2019, một nhóm nhỏ cư dân Myanmar đã tụ tập quanh màn hình máy chiếu trong một căn hộ gác xép ở trung tâm thành phố Yangon, để nghe nhà thơ và người tị nạn Rohingya, Mayyu Ali, đọc thơ qua cuộc gọi video. Đó là bài thơ rất buồn, nhan đề “That’s Me, a Rohingya” (Đó là tôi, một người Rohingya), với những dòng chữ như tâm sự kể cho những người bạn Miến Điện:

"Ngay cả khi tôi sống ở đất nước nơi tôi sinh ra
Tôi không thể gọi đó là của tôi như bạn gọi.
Không có bản sắc,
Y như một người nhập cư,
Ngay cả khi tôi hít thở không khí của bầu trời
Tôi không phải là người như bạn."

Đó là buổi đọc thơ đầu tiên trong ba buổi diễn ra vào mùa hè và vào mùa thu 2019 tại Yangon, các sự kiện đã tạo không gian cho cộng đồng người Rohingya và Myanmar chia sẻ và trao đổi ý tưởng trong một xã hội vốn đã bị phân cực sâu sắc: Gần hai năm trước, quân đội Myanmar đã tiến hành một chiến dịch tàn bạo chống lại người Rohingya ở Myanmar, đẩy hơn 740.000 người Hồi giáo thiểu số bị đàn áp sang nước láng giềng Bangladesh. Một quan chức Liên hợp quốc cho biết những người ở lại Myanmar phải sống trong các khu ổ chuột đô thị.

Chiến dịch đàn áp đó là cao điểm của những căng thẳng xã hội và chính trị sâu sắc đã tồn tại trong nhiều thập niên ở Myanmar, nơi quốc gia chủ yếu theo đạo Phật này từ lâu đã từ chối quyền công dân của người Rohingya cùng với quyền giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quyền tự do đi lại và các quyền con người khác. Ngay cả chữ “Rohingya” cũng là điều cấm kỵ ở Myanmar, nơi người dân gọi người Rohingya một cách miệt thị là "người Bengal", ám chỉ tình trạng nhập cư của họ từ Bangladesh.

Các buổi đọc thơ đã mang đến một tia hy vọng nhỏ nhoi vào thời điểm người Rohingya ở Bangladesh sống trong tình trạng bất ổn liên tục. Vào ngày 9 tháng 9/2019, Ủy ban quản lý viễn thông Bangladesh đã “chỉ đạo tất cả các nhà khai thác viễn thông đóng cửa các dịch vụ 3G và 4G trong các trại, theo Tổ chức quan sát nhân quyền, tổ chức này cũng cho biết dịch vụ tốc độ cao đã bị đóng cửa kể từ ngày 10 tháng 9. Khoảng 600.000 người Rohingya vẫn ở lại Myanmar vẫn tiếp tục sống trong cảnh giam giữ cưỡng bức tại các khu ổ chuột trong tiểu bang Rakhine, không được tiếp cận với viện trợ, viễn thông hoặc các dịch vụ cơ bản.

Một người tổ chức các buổi đọc thơ bí mật đó là Maung Saungkha, nhà thơ và cư dân Miến Điện, người từng bị tù 6 tháng hồi cuối năm 2015 vì viết một bài thơ nhan đề “Image” (Hình ảnh) trong đó có một dòng chửi mắng chính phủ quân phiệt. Nhà thơ Maung Saungkha giải thích với phóng viên báo GlobalPost: “Nếu bạn sống ở một quốc gia khác bên ngoài Myanmar, bạn có thể dễ dàng đứng lên bảo vệ người Rohingya. Nhưng ngay cả đối với [những người Myanmar chúng tôi ở đây], điều đó rất khó khăn và nguy hiểm.” Maung Saungkha là nhà hoạt động cho tự do tôn giáo và tự do ngôn luận, cũng tự biết giới hạn.

Trong một bài viết trên CNN vào tháng 4/2018, nhà thơ Mayyu Ali ghi lại vài ký ức.

Vào nửa đêm ngày 25 tháng 8/2017, tôi bị đánh thức bởi tiếng súng dữ dội. Tôi không biết tiếng súng phát ra từ đâu hoặc chuyện gì đang xảy ra. Tôi đang nằm trên giường ở thị trấn Maungdaw, tiểu bang Rakhine của Myanmar. Tiếng súng tiếp tục nổ suốt đêm và đến sáng. Sau đó, thị trấn trở nên im lặng. Cả ngày trống rỗng ngoại trừ tiếng súng nổ xa xa. Không có ai ở bên ngoài. Tiếng trẻ con chơi đùa đã biến mất.

Nhưng chẳng mấy chốc, sự im lặng đã được thay thế bằng tiếng ầm ầm của xe an ninh tiến vào. Tôi thấy quân đội tiến vào và chiếm giữ các vị trí ở mọi ngóc ngách của thị trấn. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng súng nổ từ nhiều hướng. Tôi có thể nhìn thấy khói và lửa từ các ngôi làng lân cận khi chúng bị đốt cháy. Sau đó, chúng tôi phát hiện ra rằng nhiều người đã bị thiêu sống trong nhà của họ.

Tiếp theo, quân đội nổ súng vào chính ngôi làng của tôi và đốt cháy nó. Họ đốt cháy ngôi nhà của tôi thành tro bụi. Bố mẹ tôi và tôi đã may mắn trốn thoát. Chúng tôi quyết định phải chạy trốn qua biên giới sang Bangladesh. Tôi tự hỏi, liệu bạn có bao giờ tưởng tượng được một người Rohingya trẻ như tôi, người lớn lên trong bóng tối của cuộc diệt chủng kéo dài hàng thập niên, sẽ như thế nào không.

Tôi sinh ra tại thị trấn Maungdaw vào năm 1991. Cuộc sống của tôi bắt đầu tan vỡ vào năm đầu tiên khi giấy khai sinh của tôi bị tịch thu trong một chiến dịch bán quân sự chống lại người Rohingya. Đây là thời điểm cuộc sống của tôi lần đầu tiên gắn liền với cuộc diệt chủng chống lại người dân của tôi.

Khi lớn lên, tôi đã chứng kiến ​​một thế giới mà mọi quyền con người đều bị từ chối. Tôi đã biết rằng chúng tôi bị thiệt thòi và phân biệt đối xử về mặt tôn giáo, xã hội và chính trị chỉ vì chúng tôi là chính mình. Mặc dù vậy, tôi đã cố gắng để được học tại một trường do chính phủ điều hành ở một vùng nông thôn. Năm 2008, tôi đã vượt qua kỳ thi tốt nghiệp trung học, kỳ thi vào đại học.

Khi cha mẹ tôi già đi, tôi quyết tâm giúp đỡ họ và tin rằng sự chăm chỉ của mình sẽ giúp tôi thành công trong sự nghiệp và học vấn. Tôi nộp đơn xin làm giáo viên tiểu học, nhưng bị từ chối vì tôi sinh ra trong gia đình có cha mẹ là người Rohingya. Sau đó, tôi nhận ra mình không đủ điều kiện để làm bất kỳ công việc hoặc dịch vụ nào của chính phủ tại Myanmar.

Năm 2011, tôi tham gia chương trình giáo dục từ xa tại Đại học Sittwe và chuyên ngành tiếng Anh, nhưng vào năm 2012, các cuộc bạo loạn chống người Hồi giáo đã lan rộng khắp tiểu bang Rakhine. Hàng chục nghìn người Rohingya đã phải di dời và nhiều người đã chết, nhưng cho đến ngày nay vẫn chưa rõ có bao nhiêu người. Khi những kẻ bạo loạn tấn công người Rohingya, cảnh sát đã theo dõi và trong nhiều trường hợp đã tiếp tay.

Sau đó, người Rohingya bị cấm theo học tại Đại học Sittwe và tôi phải bỏ học. Khi đó tôi 21 tuổi. Tôi vô cùng tuyệt vọng và đầy giận dữ. Chúng tôi sống trong nỗi sợ hãi cái chết, bị từ chối mọi cơ hội có được một cuộc sống bình thường.

Những năm sau đó thật khó khăn đối với người Rohingya. Trong suốt cuộc đời mình, quyền tự do đi lại của chúng tôi đã bị hạn chế, nhưng điều này thậm chí còn tồi tệ hơn sau các cuộc bạo loạn. Nhiều người trong chúng tôi không thể đến bệnh viện khi chúng tôi bị bệnh hoặc đến chợ khi chúng tôi cần thức ăn.

Việc giết người Rohingya của lực lượng tự vệ diễn ra thường xuyên. Thường thì công nhân Rohingya mất tích, được cho là đã bị giết. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Phật giáo rao giảng chống lại chúng tôi, nói rằng chúng tôi là những kẻ xâm lược nước ngoài đang tìm cách gây hại cho đất nước. Người dân Myanmar ngày càng căm ghét chúng tôi mà không hề biết chúng tôi.

Và rồi vào ngày 25 tháng 8, nhà tôi đã bị lực lượng an ninh đốt cháy. Tôi trở thành người vô gia cư trên chính quê hương của mình. Hiện tôi là một trong số hơn 670.000 người Rohingya sống sót đã trốn sang Bangladesh kể từ tháng 8, ám ảnh bởi những câu chuyện về hiếp dâm tập thể, giết người hàng loạt và các cuộc tấn công đốt phá đã thúc đẩy cuộc di cư nhanh nhất thế giới kể từ cuộc diệt chủng ở Rwanda năm 1994.

Và tôi đã trở thành người tị nạn trong trại tị nạn tạm thời lớn nhất thế giới, nơi tôi dành cả cuộc đời để cố gắng sinh tồn, dựa vào viện trợ. Thế giới mà tôi từng biết đã biến mất. Những người tôi yêu thương đã phải di dời, mất tích hoặc đã chết.

Trong suốt cuộc đời mình, chúng tôi đã gióng lên hồi chuông cảnh báo cho thế giới về hoàn cảnh khốn khổ của mình. Chúng tôi đã cầu xin sự giúp đỡ. Quá thường xuyên, chúng tôi chỉ nhận được những lời nói suông.

Năm ngoái, quân đội Myanmar đã giết hơn 6.700 người Rohingya, theo Medicin San Frontieres. Tôi tự hỏi còn bao nhiêu người trong số chúng tôi phải chết nữa để mạng sống của chúng tôi cuối cùng cũng đáng được cứu.

Sau nhiều thập niên đàn áp người Rohingya, những nỗ lực của thế giới vẫn chưa đủ. Khi đối mặt với cái chết, chúng tôi thấy mình đơn độc. Chúng tôi vô cùng cần thêm sự giúp đỡ.

Một bài viết trên France 24 vào ngày 9/2022 kể tiếp câu chuyện trên CNN. Bài viết nhan đề: “‘When I write, I exist and so does my community,’ says Rohingya poet Mayyu Ali” (Khi tôi viết, tôi tồn tại và cộng đồng của tôi cũng vậy,’ theo nhà thơ người Rohingya Mayyu Ali ghi nhận.)

"Trái đất quay quanh hai thế giới khác nhau; địa ngục và thiên đường. Tôi rời bỏ một thế giới, để khám phá thế giới còn lại." Một năm trước, vào tháng 9/2021, Mayyu Ali đã viết những lời này khi anh bước qua cánh cửa căn hộ mới của mình ở Ontario, Canada, cùng vợ và con gái nhỏ. Đó là sự kết thúc của một thử thách dài đối với nhà thơ Rohingya 31 tuổi (sinh năm 1991, bản tin viết lúc đó là 2022), người đã trải qua bốn năm trong trại tị nạn lớn nhất thế giới, Cox's Bazar ở Bangladesh.

Anh sẽ đến trường đại học để học văn học chuyên ngành vào ngày 6 tháng 9/2022, đúng năm năm kể từ ngày anh rời Myanmar - giống như 700.000 người Rohingya khác - để chạy trốn sự đàn áp của quân đội. Từ khi còn là thiếu niên, anh đã mơ ước trở thành người phát ngôn cho cộng đồng của mình và kể câu chuyện của cộng đồng. Anh đã xuất bản hàng chục bài thơ và gần đây hơn là một cuốn tự truyện bằng tiếng Pháp, "L'Effacement" (Éditions Grasset), mà anh đồng sáng tác với nhà báo Émilie Lopes. "Sự phân biệt đối xử, trốn chạy, bạo lực... Tôi đã chứng kiến ​​và trải qua mọi thứ. Nhiệm vụ của tôi là phải nói với thế giới về điều đó", Ali nói với France 24 từ Canada.

Ali sinh năm 1991 tại Maungdaw, Arakan, một vùng của Miến Điện trên Ấn Độ Dương. Là con trai của một ngư dân và là con út trong gia đình có sáu người con, anh nhớ lại "một tuổi thơ vui vẻ" khi tắm sông và chơi với những người bạn theo đạo Phật và đạo Hindu.

"Nhưng niềm vui nhanh chóng chuyển thành nỗi sợ hãi", anh nói. Kể từ luật công dân năm 1982, người Rohingya, phần lớn là người Hồi giáo, đã trở thành người không quốc tịch, vì Myanmar coi họ là những người di cư bất hợp pháp từ Bangladesh. Tình trạng này khiến họ trở thành mục tiêu của quân đội và những kẻ cực đoan theo đạo Phật. "Một ngày nọ, khi tôi khoảng 10 tuổi, quân đội đã đột kích vào nhà của tất cả người Rohingya trong khu phố của tôi. Bao gồm cả nhà tôi", anh nói. "Họ cầm súng trên tay, thật kinh hoàng. Đó là lúc tôi nhận ra: khi tôi biết rằng họ không đến nhà những người bạn theo đạo Phật hoặc đạo Hindu của tôi, tôi nhận ra rằng chúng tôi đang bị phân biệt đối xử".

Trong những năm sau đó, danh sách những bất công mà gia đình và bạn bè anh phải đối mặt dường như vô tận. "Anh trai tôi bị đánh đập rồi bị tống vào tù vì bị cáo buộc không nộp thuế nhà, đất của ông tôi bị tịch thu. Những người xung quanh tôi bị ngăn cản làm việc mà không có lý do", anh nói.

Năm 2010, Ali bị cấm học tiếng Anh tại trường đại học vì lý do chủng tộc. Được giáo viên tiếng Anh trung học giới thiệu về thơ ca, anh đã phát triển niềm đam mê với Shakespeare và tác giả người Ấn Độ Rabindranath Tagore. Chàng thiếu niên, người đã viết một cách bí mật và vì sở thích, do đó bắt đầu nghiêm túc hơn với việc viết lách.

"Lúc đầu, tôi viết nhiều về thiên nhiên, tình bạn, gia đình...", anh giải thích, ngay lập tức mỉm cười khi nhắc đến nghề nghiệp của mình. "Và rồi, từng chút một, tôi hiểu rằng viết lách có thể là một hành động nổi loạn. Tôi là người Rohingya. Đối với chính phủ Miến Điện, tôi không tồn tại. Tôi là một con người không có quốc tịch, không có quyền. Nhưng khi tôi viết, tôi tồn tại và cộng đồng của tôi cũng vậy."

Vào thời điểm mà nạn ngược đãi người Rohingya gia tăng ở Arakan vào năm 2012, chàng trai trẻ này đã chấp nhận thử thách xuất bản các văn bản của mình, được anh viết bằng tiếng Anh và tiếng Miến Điện. Vài tháng sau, một trong những bài thơ của anh đã xuất hiện trên một tạp chí văn học Miến Điện nói tiếng Anh. "Tôi đã trải nghiệm nó như một sự tái sinh. Đột nhiên, tôi trở thành một người được công nhận với một cái tên."

"Năm đó là một bước ngoặt", anh giải thích. "Người Rohingya luôn bị phân biệt đối xử, nhưng giờ đây mục tiêu của chính quyền là khiến chúng tôi biến mất", anh nói. Anh nhớ lại những cuộc bạo loạn dữ dội, những vụ hỏa hoạn chết người, những ngôi làng đầu tiên bị phá hủy và những người đầu tiên chạy trốn sang nước láng giềng Bangladesh. Anh quyết định ở lại và tham gia vào các hiệp hội, đặc biệt là Action Against Hunger, để giúp đỡ người dân địa phương.

Mọi thứ đã thay đổi vào tối ngày 25 tháng 8 năm 2017. "Lúc đó tôi đang sống ở Maungdaw, cách nhà bố mẹ tôi hai giờ đi xe buýt. Tôi đang ngủ thì mẹ gọi điện cho tôi", anh kể. "Mẹ khóc trên điện thoại, giải thích với tôi rằng quân đội đã đốt làng. Mọi thứ đã bị phá hủy". Trong những ngày sau đó, anh chứng kiến ​​những gì anh mô tả là "thanh trừng sắc tộc". "Khói mù mịt khắp nơi, đạn bay tứ tung, tiếng la hét vang lên, phụ nữ bị hãm hiếp", anh kể, giọng đầy cảm xúc.

Giống như 700.000 người Rohingya khác, Ali và gia đình anh đành phải chạy trốn sang nước láng giềng Bangladesh. Họ phải băng qua một con sông và đi bộ trong ba ngày. "Chúng tôi phải bơi giữa những xác chết trên con sông mà tôi từng chơi khi còn nhỏ", anh nhớ lại. Cho đến tận ngày nay, cứ đến ngày 25 tháng 8, người Rohingya vẫn tưởng nhớ những ngày bạo lực đó.

Là một người tị nạn tại Cox's Bazar, Ali vẫn tiếp tục viết. Nhưng những câu thơ của anh bắt đầu mang một chiều hướng khác, vì anh cũng muốn ghi nhớ mọi thứ mình nhìn thấy. Thông qua công việc của mình với các tổ chức nhân đạo và các nhà báo, những người mà anh hướng dẫn qua các nơi trú ẩn tạm thời, anh đã thu thập được hàng trăm lời khai. "Tôi đã viết mọi thứ vào sổ tay. Các bé gái bị hãm hiếp, giết người, tham nhũng, đói khát, điều kiện vệ sinh tồi tệ", ông nói. "Và tôi hy vọng rằng một ngày nào đó nó sẽ phục vụ cho công lý".

Vì những hành động này, các lực lượng dân quân vũ trang đồn trú trong trại đã đe dọa sẽ giết anh. "Tôi đã phải ẩn náu trong nhiều tháng", ông nói. "Nhưng cũng nhờ điều này mà tôi có thể rời khỏi Bangladesh. Các hiệp hội đã huy động để cung cấp cho tôi một lối thoát".

Giữ gìn văn hóa Rohingya bằng mọi giá. Mặc dù Ali đã có thể đến Canada cách đây một năm, anh vẫn luôn nhớ đến Cox’s Bazar mỗi khi nói chuyện với người thân. "Bố mẹ và anh chị em tôi vẫn ở đó", anh nói. "Họ nói với tôi rằng tình hình ngày càng tệ hơn qua từng tháng. Ngày càng bất ổn hơn. Mỗi khi thời tiết xấu, các nơi trú ẩn lại bị phá hủy. Bệnh tật đang gia tăng", anh nói.

Theo Tổ chức Bác sĩ không biên giới (MSF), các trường hợp mắc bệnh kiết lỵ đã tăng 50% so với năm 2019 tại các trại tị nạn và các bệnh nhiễm trùng da, chẳng hạn như ghẻ, đang bùng phát. Người Rohingya cũng lo ngại về sự gia tăng tội phạm, vì khoảng 100 vụ giết người đã xảy ra trong năm năm, theo số liệu của AFP. Một số nạn nhân bao gồm các nhà lãnh đạo cộng đồng, những người có thể là mục tiêu trả thù của phiến quân. Những người trẻ tuổi, không có triển vọng cho tương lai, không được phép rời khỏi trại tị nạn hoặc đi làm. Để giải tỏa các trại tị nạn, chính quyền Bangladesh đã chuyển khoảng 30.000 người tị nạn đến Bhashan Char, một hòn đảo ngoài khơi Vịnh Bengal.

Nhà văn trẻ vẫn rất muốn giúp đỡ. Khi không vận động cộng đồng quốc tế công nhận "cuộc diệt chủng" của người dân mình, anh đang nỗ lực hết mình để cung cấp quyền tiếp cận giáo dục cho trẻ em ở Cox's Bazar, một số em được sinh ra bên trong các trại tị nạn tạm thời. "Một số trẻ em đã ở đó trong năm năm, trong thời gian đó, chúng đã bị tước mất quyền được giáo dục. Tôi không muốn thế hệ này trở thành thế hệ hy sinh", anh nói. Anh đã xoay xở để thành lập hai trường học, với sự giúp đỡ của các hiệp hội địa phương, nơi học sinh học chương trình giảng dạy của Miến Điện. "Nếu một ngày nào đó, bằng một phép màu nào đó, chúng trở về Miến Điện [Myanmar], chúng sẽ có thể quay lại trường học", Ali nói.

"Khi chúng ta nói về vụ thảm sát người Rohingya, chúng ta nghĩ đến sự ngược đãi và bạo lực về thể xác. Nhưng văn hóa và ngôn ngữ của chúng ta cũng đang bị tấn công", anh nói. "Khi là người tị nạn, chúng ta mất đi gốc rễ văn hóa của mình. Chúng ta phải đấu tranh chống lại điều đó. Nếu văn hóa của chúng ta tồn tại, thì dân tộc của chúng ta cũng vậy."

Ali tiếp tục dành phần thời gian còn lại cho niềm đam mê của mình – lấp đầy các trang giấy. "Tôi muốn tiếp tục viết, được xuất bản ở nhiều quốc gia, tiếp tục đấu tranh cho dân tộc mình và khuyến khích cộng đồng quốc tế hành động", anh nói. Vào tháng 3 năm 2022, Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận "cuộc diệt chủng" do quân đội Miến Điện gây ra đối với người Rohingya. Nhà thơ kết luận: "Một dân tộc, sau nhiều thập niên, vì là một nhóm thiểu số Hồi giáo, vẫn còn dưới lưỡi kiếm và đạn. Vẫn còn trong sự áp bức thù địch, vẫn còn bị hãm hiếp và giam cầm. Vẫn còn trong lửa và sợ hãi. Ôi! Thật là bạo lực!"

Sau đây là bài thơ của Mayyu Ali, nhan đề “Họ là những kẻ sát nhân tử tế” (They’re Kind Killers), viết dựa trên lời khai của một nạn nhân Rohingya sống sót. Đây là một bài thơ dành tặng cho tất cả những người Rohingya sống sót sau cuộc diệt chủng.

HỌ LÀ NHỮNG KẺ SÁT NHÂN TỬ TẾ

Một dòng máu tuôn ra
Từ nơi chồng và con trai tôi bị giết.
Tôi đã chứng kiến
Con tôi bị giật khỏi tay tôi,
Bị ném vào đống lửa trước mắt tôi.
Nó thậm chí còn không thể khóc hết bài ca,
Bị đốt cháy thành nhiên liệu trong một phút.
Ít nhất thì tôi không phải nhìn thấy xác chết như những người khác,
Tôi cũng không phải chôn cất chúng.
Họ là những kẻ sát nhân tử tế.
Những kẻ giết người thích thú với cuộc săn đuổi.
Một kẻ đòi tiền và vàng,
Tôi đã cho đi mọi thứ tôi có, kể cả đôi bông tai của tôi
Và họ đã cưỡng hiếp tôi. hết người này đến người khác.
Kẻ cuối cùng nói:
Tôi sẽ không dùng dương vật của mình với cô
Thay vào đó, hắn đã dùng dao.
Họ thiêu sống tôi và bỏ mặc tôi cho đến chết.
Tôi thấy mình im lặng và chảy máu.
Thế giới quá can trường để chứng kiến ​​chúng tôi bị giết.

(Dựa trên lời khai của một nạn nhân Rohingya sống sót sau vụ hiếp dâm trong vụ thảm sát Tula Toli do quân đội Myanmar thực hiện trong chiến dịch giải tỏa khu vực vào tháng 8 năm 2017)

Sau đây là bài thơ “Một Kẻ Tỵ Nạn Rohingya” (A Rohingya Refugee) của Mayyu Ali.

MỘT NGƯỜI TỊ NẠN ROHINGYA

Tôi có thể bị giết ở đây tại Bangladesh.
Xác tôi có thể được tổ chức tang lễ tử tế.
Gửi tôi trở lại Myanmar là hành động ấu trĩ,
Thậm chí không có sự bảo đảm về một đám tang ở đó!
.
Khơi dậy ý định tự tử ở trại Cox’s Bazaar
Trong khi các chị em gái tôi bị buôn người và các anh trai tôi bị bắt cóc.
Mọi người tị nạn đều muốn trở về nhà,
Tại sao tôi phải chối bỏ bản thân mình?
.
Mặc dù bộ phim trong tâm dài nhất,
Tôi vẫn kêu gọi công lý.
Những gì tôi muốn là được sống lại trong chính ngôi nhà của mình,
Một cuộc sống an toàn, để hưởng các quyền của mình.
.
Thế giới mà tôi từng biết đã biến mất,
Người dân của tôi đã bị giết và phải di dời.
Đây là lần thứ tư tôi chạy trốn khỏi Bangladesh,
Đời tôi chỉ để ra sức sống sót.
.
Tôi luôn tự hỏi mình trong quá trình hồi hương:
“Liệu đây có phải là lần cuối cùng không?”
“Liệu tôi có đủ may mắn để trốn thoát một lần nữa không?”
Lần này thì khác. Trái tim tôi đang hỏi tôi.

Thơ của Mayyu Ali buồn là như thế. Có một thực tế là thế giới đã quá mệt mỏi với những cuộc chiến sắc tộc và dòng người tỵ nạn vẫn cứ như dường bất tận. Mới trong tháng 10/2024, vẫn có thêm ghe thuyền nhân Rohingya tấp vào biển Indonesia. Các cơ quan Liên Hiệp Quốc không thuyết phục cho hòa bình được ai, dù là ở Myanmar, Bangladesh, Gaza hay Ukraine. Bao giờ những ngọn lửa căm thù trên thế giới sẽ bị dập tắt bởi những dòng thơ của yêu thương?


Hình ảnh dân Rohingya chạy loạn năm 2017 (Youtube)

Lều trại  dựng ở Indonesia cho dân tỵ nạn Rohingya ở tạm. (Youtube)

Các bìa sách của Mayyu Ali trên Amazon.

Sunday, December 8, 2024

3660. Thơ Đặng Tiến - Hoàng Xuân Sơn.




Đặng Tiến

BÀI TÂN CỔ PHONG

Kỷ niệm 34 năm  (6.12.1990 – 6.12.2024]

 

Vợ ta không phải là huê hậu,

Bởi ta là giáo - khổ - trường - công.

Nghèo mạt rệu, lơ ngơ, lóng ngóng,

Lấy được vợ đã phúc vạn lần!

 

Vợ ta không "trâm anh thế phiệt",

Kiểu nhà mặt phố bố làm to.

Bởi ta hậu duệ của giáo Thứ,

Chỉ nghĩ thôi đã chán thấy mồ.

 

Ta nhớ cái ngày ta thưa chuyện,

Cả nhà mừng quýnh! Chẳng ai tin

Cha mẹ gần như là thảng thốt,

Em út nghi nghi, ngó mặt nhìn.

 

Cũng như ta. Vợ ta nhà giáo,

Tổ quốc thương yêu vạn nẻo đường!

Gieo hạt giống vàng! Ồ! Xin lỗi...

Bán - cháo - phổi thôi đặng kiếm cơm.

 

"Tam thập...nhi lập...". Bàn tay trắng,

"Vạn quyển..." trên tường. Lặng. Lặng câm.

Sữa nuôi con và điện thắp sáng,

Chẳng kêu ca. Vợ ta tảo tần.

 

Có thể ít ăn! Nhưng phải đẹp,

Bày biện sắc màu mỗi bữa ăn

Hoa trưng, chén đĩa và quần áo

Đẹp mặt con cùng đẹp mặt chồng.

 

Hai con ta tất nhiên xinh đẹp!

Một gái một trai! Đủ điểm mười

Thông minh hình như hơn cha mẹ

Và bi giờ! Đũa đã có đôi!

 

Biết uống rượu! Là nhờ vợ...xúi!

Đàn ông cần có lúc tưng bưng

Gặp bè bạn uống rồi chém gió

Nam vô tửu như cờ vô phong!

 

Vợ hối thúc mua xe mà lái

Mùa hè không nóng ấm mùa đông

Vi vu khi cần trời đất ngắm

Thích thì dừng bãi cỏ bến sông.

 

Mua đất. Làm nhà. Cũng là vợ,

Chan hòa nắng gió, bốn mùa hoa

Trò cũ, bạn bầu thường vẫn ghé

Thế thôi là đủ lúc về già.

 

Ta nhất sanh biết mỗi đọc sách!

Về già. Dở chứng. Nhung nhăng thơ.

Ngu ngơ. Vẫn ngu ngơ như thế,

Hình như. Có vẻ. Hơi bị thừa!

 

Hơi bị thừa! Vị mùi hơi gắt

Nhưng vô tích sự. Quả không sai.

Lão bạn nhìn, lắc đầu, ngán ngẩm,

Thế gian chẳng ai giống cái mài/mày!

 

ĐẶNG TIẾN

(Thái Nguyên)

 

 

Hoàng Xuân Sơn

XÓ CỦA TÌNH

       NGÁCH CỦA Ý

 

Ta ngồi một xó lất lây

Chợt nghe thân hạn

Còn bay giữa trời

Đời chi lạ

Một cuộc chơi

Lén lút. nấp. ẩn

Phóng

Phơi

Tuềnh toàng

 

Một hôm bỏ áo vô quần

Mới hay xa lộ sạch boong

Ý

Tình

 

h o à n g x u â n s ơ n

hxs@sumac.20nov24


 

Đ Ờ I

 

Thè nhau ra

Lưỡi

Và môi

Xin đừng xâm thực

Chỗ ngồi kim cang

Để cho thiên hạ chạy làng

Một nơi xó xỉnh

Một ngang [ngạnh]

Mình

Giận. hờn. nẩy lửa tam tinh

Không ai chẳng ai hiểu tình muội mê

Sống. và đi

Ngồi

Rề rề

Chậm như nước giọt. tái tê

Nỗi niềm

Tâm và trí. trăng lưỡi liềm

Hay chăng khuyết tật

Vừa niêm phong

Đời

 

h o à n g x u â n s ơ n

10:49 • 2 6 1 1 2 4

Saturday, December 7, 2024

3659. SONG THAO Di động

 


Ngày 20/9/2024 vừa qua, Apple tung ra chiếc iPhone 16, dân chúng náo động lên. Dân chúng tôi nói đây là con em của chúng tôi. Chúng chờ và đổi iPhone mỗi khi Apple có động tĩnh. Apple đã gây ra một chứng nghiện mà tuổi trẻ năng nổ tham gia, nếu không thì thua em kém chị. Nói theo ngôn ngữ thời đại, đây là một loại “cuồng”. Người có lợi không phải là người bỏ tiền ra chạy theo con số của từng đợt iPhone mà là những bậc cha mẹ như chúng tôi. Cứ vớt vát phôn cũ do chúng thải ra cũng là niềm vui. Niềm vui không tốn xu teng nào.

Facebook hay YouTube là chốn “khoe” iPhone. Người ta thi nhau “đập hộp” chiếc iPhone mới. Cũng lạ, có nhiều nhà sản xuất điện thoại di động, bám sát theo Apple như Samsung chẳng hạn. Chiếc phôn tay của Samsung cũng xịn xò không kém. Chú em và con trai tôi khá rành về điện tử nhất định không bao giờ xài iPhone. Vừa mắc vừa rắc rối điều hành hơn. Vậy sao chẳng thấy ai “đập hộp” phôn Samsung cả. Có lẽ Samsung không có hộp!

iPhone là ma mới trong ngành phôn tay. Chiếc iPhone đầu tiên trình làng vào tháng 6/2007 nhưng đã được cha đẻ của nó là Steve Jobs quảng cáo từ tháng giêng cùng năm. Ông biết cách nắn gân thị trường khiến iPhone được người ta chú ý tới. Chuyện này khỏi phải ngôn. Ông đã từ tay trắng vươn lên. Năm 1976, Steve Jobs mới 21 tuổi, đã bán chiếc xe van cũ Volkeswagen với giá 1.300 đô và bạn ông, Steve Wozniak, bán chiếc laptop Hewlett-Packard được 500 đô. Đó là vốn ban đầu để lập nên Apple. Họ dùng nhà để xe của bố ông Steeve Jobs làm văn phòng công ty. Chỉ bốn năm sau, năm 1980, Apple đã được đưa lên thị trường chứng khoán với giá trị thị trường lên tới 1,2 tỷ đô. Chỉ trong một ngày, giá trị vọt lên 1,8 tỷ đô. Sau khi tung ra thị trường chiếc iPhone 4S, Steve Jobs lìa đời vào ngày 5/10/2011. Thế giới điện tử xôn xao với cái chết vào năm 56 tuổi của bậc kỳ tài trong ngành. Người ta nghĩ khi qua thế giới bên kia, Steve Jobs vẫn sẽ là một kỳ tài bằng nhiều câu chuyện. Chẳng hạn như Steve sẽ giúp thánh Peter trong việc lập sổ sách trên thiên đàng. Thánh Peter không còn luộm thuộm với từng chồng giấy tờ mà hồ sơ tiên quốc sẽ được Steve giúp cho vào computer hết. Chẳng hạn như các nhà chế đồ hàng mã tung ra hàng mới là chiếc iPhone để đốt xuống âm phủ cho người thân quá cố vì dưới đó đã có Steve Jobs set up và sửa chữa!

Một tay tổ khác đã để nhiều dấu ấn cho iPhone tại Apple là ông Gerard Richard Williams. Cái tên này nghe quen quen. Đó là ông tỷ phú, chồng của cô ca sĩ Bích Tuyền bị Đàm Vĩnh Hưng kiện đang gây xôn xao dư luận. Ông làm việc cho Apple trong gần chục năm, từ năm 2010, đứng đầu bộ phận thiết kế con chip Apple A7 cho iPhone bắt đầu từ iPhone 5S. Con chip nhỏ này khi xuất hiện đã làm kinh ngạc giới chuyên môn và đưa iPhone lên hàng bá chủ của điện thoại di động. Sau khi rời Apple, ông thành lập công ty Nuvia, chuyên chế tạo các con chip được dùng trong các điện thoại không phải là iPhone. Không lâu sau khi thành lập, Nuvia đã được hãng chế tạo chip lớn nhất thế giới Qualcomm mua với giá 1,4 tỷ. Ông Gerard Williams leo vào hàng ngũ các tỷ phú. Một ông tỷ phú rất văn nghệ, từng nhiều lần xuất hiện trên sân khấu với áo dài, hát nhạc Việt rất tới.

iPhone mới chỉ có từ năm 2007 nhưng chiếc điện thoại di động đã có từ trước đó khá lâu. Ngày 3/4/1973, Martin Cooper đứng trước khách sạn Hilton trên Đại lộ số 6 ở Manhattan, thành phố New York, tay ôm một cục gạch” nặng hơn 1 ký. Ông bấm số và gọi cho ông Joel Engel đang ở Murray Hill, tiểu bang New Jersey, cách đó khoảng 30 dặm. Ông Martin Cooper còn nhớ như in giây phút lịch sử đó: “Tôi bấm vào số máy bàn của Joel Engel  rồi nói: ‘Chào Joe, Marty Cooper đây’. Bên kia chào lại: ‘Chào Marty’. Tôi bèn nói ngay: ‘Tôi đang gọi cho anh bằng chiếc điện thoại di động, di động thực sự, điện thoại di động cầm tay’. Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu. Tôi đoán là cậu ta tức điên lên. Nhưng rồi cậu ta cũng tỏ ra nhã nhặn và chúng tôi kết thúc cuộc gọi”. Cuộc gọi chỉ giản dị có vậy nhưng đó là cuộc gọi điện thoại di động đầu tiên trên thế giới. Tại sao bên nghe lại tức tối? Vì họ là đối thủ cạnh tranh nhau. Ông Martin Cooper lúc đó đang làm cho Motorola, một công ty nhỏ và Joel Engel làm cho Bell Labs, một công ty lớn. Hai bên ganh đua nghiên cứu về điện thoại di động. Martin Cooper đã về tới đích trước. Cú khoe cuộc gọi di động đầu tiên là cú chọc quê của anh chàng tý hon gửi cho anh chàng khổng lồ. Ông hớn hở cho biết: “Họ là công ty lớn nhất thế giới, còn chúng tôi là một doanh nghiệp nhỏ ở Chicago. Họ không nghĩ chúng tôi đã hoàn tất được một thứ rất quan trọng như vậy”.  “Cục gạch” biết nghe biết nói đầu tiên mà Martin Cooper sử dụng là chiếc điện thoại ban sơ Motorola DynaTAC 800X, nặng tới 1 ký, dài tới 25,4 phân. Mỗi lần sạc pin phải mất 10 tiếng và chỉ sử dụng được có 35 phút. Khi thực hiện cuộc gọi đầu tiên này, Motorola đã phải thiết lập một trạm thu phát đặt trên nóc tòa cao ốc Burlington Consolidated, nay là tòa nhà Alliance Capitol Building.

Dân chúng tuy háo hức với cái máy alô tiện dụng này nhưng phải dài cổ chờ cho tới 11 năm sau, năm 1984, Ủy Ban Truyền Thông Liên Bang Hoa Kỳ (Federal Communications Commission) mới cấp phép cho công ty DynaTAC bán ra thị trường chiếc điện thoại đầu tiên. “Cục gạch” này đã được làm nhẹ từ 1 ký xuống còn 794 gram, dài 25,4 phân. Mỗi lần sạc đầy pin chỉ sử dụng được 60 phút. Vài năm sau tôi đã được thấy tận mắt chiếc điện thoại này do một tên bạn đồng nghiệp da màu sử dụng. Hắn giắt bên người như cảnh sát giắt bao súng, kềnh càng vẹo một bên sườn khi đi đứng. Mỗi lần phôn phải kéo cần antenne dài thòng ra. Thấy chúng tôi cười, hắn sừng sộ cho biết phải bỏ ra bạc ngàn mới mua được. Nay dò giá mới biết cục gạch này có giá 3.900 đô Mỹ. So với thời giá ngày nay khoảng 12 ngàn đô! Bèn phục ông bạn chịu chơi. Hãng Motorola đã bán được 8 triệu chiếc DynaTAC này.

Chiếc phôn tay đầu tiên này chỉ làm được một nhiệm vụ duy nhất là alô. Nhưng như thế cũng là phúc đức rồi. Từ nay cái  phôn không còn dính vào bàn nữa mà tung tăng khắp chốn. Chỉ phải cái vác nặng. Nhưng ông bạn tôi dân da màu, đô con, chuyện vác cái phôn nặng 794 gram là chuyện nhỏ. Không biết ông có dùng nó tới một thập niên không vì chiếc phôn sau này ngon lành hơn nhiều.

Đó là phôn Simon của IBM được trình làng vào năm 1993. Đây là chiếc smartphone, phôn thông minh hẳn hoi. Máy có màn hình cảm ứng LCD rộng 4,5 inch nhưng chưa có màu. Chỉ black & white. Ngoài chuyện alô, máy Simon có thể gửi hay nhận mail và có kèm theo cây viết stylus. Giá bán 899 đô.

Chuyện các anh chị đang yêu đương rất hay bấm trên điện thoại thông minh là tin nhắn SMS (Short Message Service). Đánh tin nhắn, gửi đi, người yêu ở xa nhận được liền, cứ như bá vai bá cổ nhau nhắn nhủ. Bản tin nhắn đầu tiên trên điện thoại do kỹ sư người Anh Neil Papworth gửi cho bạn là Richard Javis, nội dung chỉ vỏn vẹn có hai chữ: “Merry Chritmas”. Khi đó mới là ngày 3/12/1992. Còn 3 tuần nữa mới tới Giáng Sinh. Chắc ông này nôn nóng gửi tin khi mới tìm ra “trò” mới. Tin nhắn thường gọn gàng, đủ để chuyên chở lời nhắn, không phải là thư, càng không phải là thư tình. Sợ các cô các cậu lòng thòng tâm sự nên phải đặt ra giới hạn. Sau nhiều lần thử nghiệm bằng nhiều nội dung tin nhắn khác nhau, kỹ sư người Đức Friedhelm Hillebrand giới hạn chỉ 160 chữ.

Smartphone có thêm tính năng chụp hình vào năm 1997. Đây là công trình của kỹ sư người Pháp Philippe Kahn. Ông đã chụp bức hình đầu tiên trên điện thoại vào ngày 11/6/1997. Đó là bức hình cô con gái sơ sanh của ông tên Sophie. Phải 3 năm sau, các cô các cậu mới được hưởng tính năng thú vị này khi chiếc smartphone có ống kính chụp hình tên J-SH04 ra đời.

Điện thoại cầm tay thông minh ngày càng được cải tiến, hình hài được thu nhỏ lại, tính năng được thêm vào. Ngày nay hầu như không người nào, kể cả các nông dân trong các nước đang phát triển, không ra đường với chiếc điện thoại kè kè bên mình. Họ chọc chọc bấm bấm bất cứ nơi nào: trong nhà hàng, khi ngồi chờ trong các phòng mạch, trong trạm metro hay xe buýt, trên tàu trên xe. Kể ra không hết. Hình như khi còn thở là ngón tay còn hoạt động. Họ mằn mằn nối cuộc sống với cả thế giới. Chong mắt đọc thư, coi tin nhắn, coi hình, hỏi anh Google mọi chuyện đông tây kim cổ, rà Facebook, coi YouTube. Cả thế giới thu nhỏ trong màn hình càng ngày cũng càng  nhỏ.  Chiếc điện thoại nhẹ nhàng, xinh xắn có thể nằm gọn trong túi theo người dùng đi ta bà thế giới. Nó là người tình bé bỏng không rời của già trẻ lớn bé. Theo báo cáo của Liên Minh Viễn Thông Quốc Tế (International Telecommunication Union), một tổ chức của Liên Hiệp Quốc, vào năm 2022, 72% dân số thế giới từ 10 tuổi trở lên sở hữu ít nhất một chiếc điện thoại thông minh. Tại các nước giầu, dân có thu nhập cao, tỷ lệ này là 95%. Tại các nước dân có thu nhập thấp, tỷ lệ là 49%.

Với tỷ lệ dân số thế giới sử dụng điện thoại cao như hiện nay, người ta thấy cần phải tri ân người sáng chế ra điện thoại cầm tay: kỹ sư Martin Cooper. Ông sanh ngày 26/12/1928 tại Chicago, tiểu bang Illinois, dòng dõi Do Thái tỵ nạn từ Ukraine. Ông tốt nghiệp kỹ sư điện tại Illinois Institute of Technology (IIT) năm 1950. Ông gia nhập Hải quân và tham chiến tại Cao Ly. Sau khi giải ngũ vào năm 1954, ông làm cho Motorola. Năm 1957, ông tốt nghiệp cao học tại cùng trường IIT. Năm 2004, khi đã 76 tuổi ông mới nhận bằng Tiến Sĩ danh dự. Trả lời phỏng vấn của trang mạng Motherboard, ông khẳng định là từ nhỏ ông đã biết mình sẽ làm nghề kỹ sư điện vì tính ưa tò mò, cái chi cũng mày mò tháo ráp. Năm nay đã 95 tuổi, ông vẫn theo dõi sự tiến triển của điện thoại cầm tay thông minh.

Nói về điện thoại ngày nay, ông Martin Cooper cho rằng nhiều kỹ sư đang bị cuốn vào cái mà họ gọi là kỹ nghệ tiện ích, phần cứng, mà quên đi mục đích của kỹ nghệ là làm cho cưộc sống tốt hơn. Ông nói với AFP: “Mọi người quên điều đó, và tôi phải liên tục nhắc nhở họ. Chúng tôi đang cố gắng cải thiện trải nghiệm của con người. Đó là tất cả những gì kỹ nghệ hướng tới. Điện thoại bây giờ đã trở thành một phần mở rộng của con người…Mỗi thế hệ smartphone sẽ trở nên thông minh hơn. Con người cũng sẽ học cách sử dụng chúng một cách thông minh hơn”. Vẫn theo ông Martin Cooper, điện thoại cầm tay sẽ cách mạng hóa giáo dục và y tế. Một ngày nào đó, điện thoại sẽ được kết nối với một loạt cảm biến cơ thể, có khả năng phát hiện bệnh tật trước khi bệnh phát triển. Mới đây, tại Hội Nghị Di Động Quốc Tế (Mobile World Congress) họp tại Barcelona, Tây Ban Nha, ông nhìn về tương lai: “Thế hệ tương lai sẽ có điện thoại cấy dưới da tai của họ”. Điện thoại tương lai không cần phải sạc điện vì chúng sẽ lấy một số năng lượng nhỏ từ chính cơ thể con người. Cơ thể con người là bộ sạc hoàn hảo nhất vì nó có thể tạo ra năng lượng khi chúng ta ăn. Tầm nhìn của ông không viển vông vì trong thực tế, một số công ty trong đó có Neuralink đã thử nghiệm giao điện não – máy tính.

Hầu như không ai sống trên trái đất này mà không kè kè chiếc điện thoại di động bên người. Cha đẻ của chúng nói với Đài CNN: “Chúng tôi từng tưởng tượng một ngày nào đó, khi sanh ra bạn sẽ được chỉ định một số điện thoại. Nếu không tương tác với điện thoại bạn sẽ chết!”.

Cạnh những điểm cộng như trên, điện thoại di động cũng có những điểm trừ. Điểm trừ không phải do chính chiếc điện thoại ngày càng gọn gàng, xinh xắn, đẹp như một thứ trang sức mà ở cách con người dùng điện thoại. Có một thời, người ta phô trương điện thoại quá đáng. Vào tiệm ăn uống, điều đầu tiên là thả chiếc điện thoại trên bàn để…khẳng định. Điện thoại càng xịn, độ vênh của khuôn mặt càng lớn. Ngày nay trò này coi bộ xẹp dần. Có thể vì bệnh nghiện điện thoại đang tràn lan. Từ nhỏ tới lớn. Mấy đứa cháu tôi, chỉ vài tuổi quèn, vừa bỏ quấn tã, đã lướt điện thoại như máy. Bệnh nghiện điện thoại khiến cho người phát minh ra điện thoại di động phải lo lắng. Theo ông, con người đang trong giai đoạn “nhìn chằm chằm một cách vô thức vào điện thoại”. Có những người băng qua đường, mà vẫn chăm chú nghe điện thoại, bất kể  nguy hiểm. Theo một khảo sát trên ScienceDirect vào năm 2022, 14,4% bộ hành không chú ý tới giao thông khi băng qua đường. Nhóm nghiên cứu gọi hiện tượng này là “vấn đề an toàn giao thông mới nổi”. Mới nhưng chúng ta gặp hàng ngày. Sáng nay, khi lái xe trên khu Côte des Neiges, mấy chàng và nàng đi bộ băng ngang đường, mặc cho đoàn xe sốt ruột chờ hết người để di chuyển, tỉnh bơ khệnh khạng vừa băng qua đường vừa mằn mằn điện thoại.

Trong một lần xuất hiện trên chương trình “BBC Breakfast”, ông Cooper ngẩn người khi cô xướng ngôn viên dẫn chương trình cho biết cô đã dành khoảng 5 tiếng mỗi ngày trên điện thoại. Ông hỏi lại: “Thật hả? Cô thực sự dành 5 giờ mỗi ngày dùng điện thoại? Hãy sống cho đàng hoàng đi!”. Sau đó ông tiết lộ ông chỉ dành khoảng 5% thời gian trong ngày cho điện thoại di động.

Cha đẻ cell phone là người…lạc hậu. Theo một khảo sát của Statista vào năm 2021, 46% người Mỹ dành từ 5 tới 6 tiếng mỗi ngày cho điện thoại di động, 11% sử dụng điện thoại 7 tiếng mỗi ngày hoặc lâu hơn.

Bạn đừng hỏi tôi dành bao nhiêu giờ mỗi ngày cho smartphone, đó là một câu hỏi thiếu tế nhị!

SONG THAO
Tháng 11/2024

"Cha đẻ" của điện thoại di động Martin Cooper. Hình: Reuters

Friday, December 6, 2024

3658. ĐỖ THANH TÙNG Đọc tranh Trương Vũ.

CHÂN DUNG TRƯƠNG VŨ
Duyên vẽ (2017)

Tháng 8 năm 2024, sau gần nửa năm về lại Sài Gòn và “điều chỉnh cuộc sống” anh Trương Vũ “bắt đầu vẽ lại”, anh làm lại phác họa cũ của một “bức tranh chỉ mới phác họa vào 2024 rồi bỏ dở” và cuối cùng “hoàn tất bức tranh” rồi “đặt tên bức tranh là “Thu”.

Bức tranh “Thu” thể hiện khá rõ ràng nét đặc thù của Tranh (và Hội họa) Trương Vũ với cách bố cục hàn lâm, màu sắc chân phương khi anh sử dụng rất nhiều màu chính (vàng xanh đỏ...) ở nguyên trạng (có rất ít pha trộn với đen trắng để phụ thêm chiều sâu hay bóng sáng...), điều đó cũng thật dễ hiểu khi, có lẽ, nó giúp làm nên nét đơn thuần và sự trong sáng của bức tranh hơn (?).

“Thu” với bối cảnh là rừng cây hoa lá và một vạt nước trong xanh thực ‘tĩnh lặng’ kể cả một ‘động vật’ là con vạc (hay hạc, hay cò hay bồ nông...) đứng một chân ở thế bất động, nó có khác với cảnh tĩnh lặng đó ở mùa thu của những bức tranh thủy mặc trong hội họa cổ điển. Tuy bức tranh không có không gian cũng như thời gian nhưng dường như nó thể hiện một cảnh thu nào đó không phải ở Việt Nam, nó dường như là ở một vùng nào đó ở Đông Bắc Hoa Kỳ(?)...

Dù được vẽ theo cách của ‘trường phái’ nào, ‘biểu hiện’ hay ‘ấn tượng’, ‘trừu tượng’, ... bức tranh “Thu” khá giản dị và đẹp để được ‘Xem’. Tuy ngoài cái ‘biểu hiện’ đơn giản đó, vì nó là ‘tranh Trương Vũ vẽ’, nó khiến ta cần muốn ‘Đọc’ để được biết thêm cái ‘ấn tượng’ mà anh Trương muốn gửi gắm và trình bày... Cái ta muốn ‘Đọc’ đó, hình như chất chứa nơi bài viết đi kèm, “Thu năm nào?”, cùng với bức tranh “Thu”.

 Tôi ‘biết’ anh Trương khá lâu, từ trước 1975, khi biết anh cùng là cựu học sinh Võ Tánh và là người Nha Trang như tôi. Nhưng phải đợi đến gần 50 năm sau tôi mới được ‘quen’ anh nhờ vào nhóm ‘bằng hữu văn nghệ’ vùng Đông Bắc Mỹ và các anh Đinh Cường, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Minh Nữu... Sự ‘quen biết’ dù chưa lâu dài nhưng cũng giúp tôi gần gũi anh hơn và được biết thêm nhiều điều về sự nghiệp Văn hóa (Khoa học Kỹ thuật và Văn chương Mỹ thuật...) của anh.

Rời trường Võ Tánh, anh Trương bước vào lãnh vực giáo dục rất sớm để rồi “tự mình” biến thành “mô phạm” trong cái nghĩa “nghiêm túc” và “nghiêm khắc” như anh tự thú nhận. Là một nhà mô phạm ‘dấn thân’, anh Trương từ những năm đầu khi dạy Toán và đặc trách Sinh Viên Vụ tại Đại Học Duyên Hải Nha Trang, muốn dùng “sự giáo dục về văn hóa” để ‘xây dựng mô hình cho “Kẻ Sĩ”, một tầng lớp ‘trí thức mới’, giúp nâng cao và biến đổi xã hội cũng như con người Việt Nam: “Chúng tôi làm việc chung với nhau tại Duyên Hải trong một số chương trình nhân văn, chia sẻ những ước mơ về một tương lai cần có cho những thế hệ tiếp nối đào tạo từ ngôi trường này...”.

Biến cố tháng Tư 1975 anh ‘bị’ (hay ‘chọn’?!) ở lại Việt Nam để thử tiếp tục công việc giáo dục như cũ dưới một thể chế mới, nhưng không lâu sau anh ‘chọn’ (hay ‘bị’) phải bỏ lại gia đình, ra đi tìm tự do. (Mãi đến 10 năm sau anh mới được đoàn tụ cùng gia đình ở Mỹ). Anh Trương là một trong những ‘thuyền nhân’ (boat people) Việt Nam đầu tiên đến được Manila Philippines, khởi đầu cho một chuỗi dài của làn sóng thuyền nhân Việt Nam tị nạn trong lịch sử lưu dân thế giới của nhân loại, mà không ít những người trong số đó không bao giờ đến được bến bờ tự do...

Định cư tại Hoa Kỳ, anh Trương dùng sở trường về Toán học để trau giồi thêm về Khoa học Kỹ thuật và đã rất thành công trong lãnh vực này, anh đã giữ những chức vụ quan trọng cũng như tham dự và phụ trách nhiều công trình nghiên cứu và phát triển về Vật Lý và Kỹ Thuật Không Gian ở đây (Hoa Kỳ).

Nơi anh, có một sự hài hòa giữa Toán học, Khoa học Kỹ thuật, và Văn học, Văn chương Mỹ thuật, như anh có viết: “tinh thần toán học, nhất là thói quen tìm giải đáp cho những nghi vấn, đã giúp tôi đến với văn chương thi vị hơn...” (Mưa Ướt Vị Thanh, Đuổi Bóng Hoàng Hôn). Cho nên gần 50 năm nơi hải ngoại anh Trương đã tạo dựng, bên cạnh đời sống thành danh với Khoa học, một sự nghiệp Văn học, Văn hóa đáng ngưỡng mộ: Kêu gọi và cổ võ cho sự hòa hợp Văn Học cũng như tạo nơi gặp gỡ giữa trong và ngoài nước Việt Nam cho Văn Nghệ Sĩ, các nhà ‘Hoạt Động Văn Hóa... Tiếp tục công tác Giáo dục, khuyến khích tạo dựng một tương lai “Trí Thức Mới” biết nói lên “sự thực” và tôn trọng “sự thực”, tranh đấu “để xã hội  nhân bản hơn, tôn trọng những quyền căn bản của con người hơn, và để cho người dân có tự do, có cơ hội sống một đời sống có phẩm cách, như trong  bao nhiêu quốc gia tiến bộ khác” (Đêm Đại Dương, Đuổi Bóng Hoàng Hôn).

Trong lãnh vực Văn chương, người ta biết nhiều về Trương Vũ (và với những hoạt động về Văn học của anh), đã xếp anh như một nhà văn dù anh Trương không viết nhiều về thể loại sáng tác, mà chuyên về viết biên khảo, tham khảo, tiểu luận, tạp luận, tùy bút, hồi ký... Các bài viết của anh phổ biến khá nhiều trên các tạp chí giấy và mạng hay các diễn đàn internet (gần đây trên cả FaceBook)... Phải chờ đến năm 2019, bè bạn thân hữu đã cổ vũ và góp sức cùng anh ấn hành tập tiểu luận “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” cũng là một ấn phẩm duy nhất của anh cho đến nay... Xem vậy ta càng biết rõ thêm một điều, anh Trương dùng Văn chương như một phương thức để trình bày và phát biểu ý tưởng của mình mà (khác với các ‘Tiểu thuyết gia’) không cần phải qua một ‘nhân vật’ nào như trong ‘tiểu thuyết’.

Về Mỹ thuật cũng như Hội họa, anh nhiều lần bộc lộ Hội họa là một niềm đam mê lớn của đời anh. Trong gia đình anh, chị anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh là một Họa sĩ tài danh đã tốt nghiệp thủ khoa khóa đầu tiên của trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, tại Nam Việt Nam. Anh Trương không biết có ‘chịu’ chút nào ảnh hưởng từ chị ở những bức tranh vẽ chân dung mà họa sĩ Trương Thị Thịnh là một bậc thầy lỗi lạc trong lãnh vực đó? Nhưng cho dù không ‘bị’ chút ảnh hưởng nào, anh Trương chắc cũng ít nhiều chia sẻ cùng chị khi sử dụng ‘phong cách ấn tượng, hậu-ấn tượng’ trong lúc vẽ tranh chân dung chăng (!?).

Anh Trương dành khá nhiều thì giờ để ‘vẽ tranh chân dung’ cho bè bạn, thân nhân gia đình và những người anh quý mến... Theo anh Trương, từ nhỏ anh đã “thích vẽ người thật vì cái mê muốn nắm bắt một sự sống nào trong mỗi con người”. “Cái quan trọng khi vẽ chân dung là sự chân thật”, là ‘vẽ truyền thần’, là “tìm từ người mẫu một nét đẹp nào, một niềm vui hay nỗi khổ để đưa lên nét đẹp trong tranh”, là “cần biểu lộ được nhân cách của người mẫu, để tạo được cho người trong tranh một thế giới của riêng họ, để mỗi chân dung biểu hiệu một sắc thái riêng, một thế giới riêng, một nét đẹp riêng...” và cuối cùng là “chú trọng đến sự thể hiện tâm hồn người trong tranh”. Ô! vẽ tâm hồn! Có phải vì vậy mà anh Phạm Cao Hoàng đã gọi và vinh danh công việc ‘vẽ tranh chân dung’ của anh Trương Vũ là “Tôi Đang Vẽ Tâm Hồn Của Bạn” với một bài thơ dài có hai câu kết là:

“để khuôn mặt bạn trên bức chân dung   
sẽ là một khuôn mặt tràn đầy yêu thương và thánh thiện.”
(Phạm Cao Hoàng, Tôi Đang Vẽ Tâm Hồn Của Bạn)

Anh Trương có khá nhiều bạn bè là những Họa sĩ nổi danh trong cũng như ngoài nước. Trong số đó có hai người bạn thâm giao là hai anh Võ Đình và Đinh Cường  (hai anh đều đã qua đời!). Cả ba người tuy có cùng đam mê cho Hội họa nhưng mỗi người lại có và chọn cho mình những phong cách Mỹ thuật và Nghệ thuật khác nhau:

Nếu Đinh Cường (trong một lần triển lãm nào đó) có lời ‘nhắn nhủ’ cho người thưởng ngoạn là ‘... tranh của anh là để ‘cảm’ chứ không phải để ‘hiểu’ (vì xem tranh là một cảm nhận ‘tức khắc’ (instant)). Nó khác với anh Trương, có lẽ khi thưởng ngoạn tranh của anh Trương, bên cạnh ‘Xem’ cái đẹp ta còn cần phải ‘Đọc’ những gì anh muốn trình bày ẩn chứa bên trong(?)...

Riêng về tranh Võ Đình, anh Trương có lần viết là: “... không khí  hội họa luôn luôn bao trùm văn chương Võ Đình...”, nên ta cũng có thể thêm ở đây về tranh của anh Trương là: “Văn chương anh Trương thể hiện đầy trong hội họa, anh viết văn chương bằng màu sắc trong tranh. Và vì vậy Tranh của anh khi đã ‘Xem’ còn cần phải được ‘Đọc’...

Bức tranh “Thu”, cùng bài tùy bút “Thu Năm Nào?” với dấu chấm hỏi (?)  khiến ta băn khoăn đôi chút. Anh Trương viết: “bức tranh này, dù dựa vào cảnh vật, cảm xúc, trí tưởng tượng ở năm nào, ở đâu, nó vẫn chỉ là sản phẩm riêng của người vẽ”. Cho dù là vậy ta cũng ráng tìm hiểu thêm để biết được ra rằng bức tranh đã vẽ về cảnh mùa thu của một năm xa xưa nào đó, và có lè là đã vẽ một cảnh thu ở Mỹ (!).

Sự băn khoăn, làm ta lan man nghĩ tới một chuyện tích thần tiên cũ thời xưa: chuyện Lưu Thần, Nguyễn Triệu đời Hán bên Trung quốc... Lưu, Nguyễn (hay gần gũi hơn, Từ Thức của Việt Nam) lạc đường vào chốn ‘thiên thai’, rồi chỉ sau “nửa năm” vui chơi rộn ràng nơi “tiên cảnh” chợt nhớ quê nhà và đòi về lại chốn cũ “một bước trần ai”. Nhưng ‘trần gian xưa’ đã hoàn toàn thay đổi cả không gian lẫn thời gian nên các cụ giờ lại muốn tìm về lại chốn cũ ‘Đào Nguyên’ đã mất... Sách vở không thấy nói gì về chuyện các cụ có về lại được ‘thiên thai’ nữa hay không? Hay chỉ còn là:

“ Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...”
(Tản Đà,Tống Biệt)

Riêng tôi, cái làm tôi không sao không nhớ tới những gì anh Trương đã viết từ Maryland năm 2012 trong tùy bút “Những cơn mưa ngày cũ” trong tập tiểu luận “Đuổi Bóng Hoàng Hôn” của anh. Nó đã tự nói lên trước được tâm trạng của anh lúc này (ở tại Sài Gòn), khi đã từ quê người (Mỹ) về lại quê nhà (Việt Nam). (Và sao nó cũng giống như tâm trạng của không ít những người Việt Nam lưu vong từ sau biến cố 1975 phải luân lạc nơi xứ người !): “Đã sống ở Mỹ nửa đời người rất khó để nói rằng nước Mỹ không phải là một quê hương mới”. Anh đã ‘bị’ yêu cảnh vật, cây cỏ miền Đông Bắc Hoa Kỳ “nhất là màu sắc của cây khi trời bắt đầu vào Thu...”. Anh hay vẽ “cảnh mùa Thu ở đây, cảnh nắng trên đồi, cảnh lá vàng trong rừng, cảnh thung lũng trong mù sương” và nhất là “những thay đổi của lá vào mùa Thu đã đủ ấn tượng để cuốn hút tâm hồn” anh “vào đó”. Anh đã vẽ rất nhiều bức tranh về mùa Thu... Trên Trang VHNT  Phạm Cao Hoàng, phần dành riêng cho Trương Vũ (Tranh Trương Vũ) đã có đến 12 bức tranh ‘Thu’ của anh Trương(!?). Tất cả đều vẽ về mùa Thu ở Mỹ, nơi anh Trương sống.

Đã có biết bao mùa Thu trong đời anh. Mùa Thu nào của kỷ niệm ấu thời. Mùa Thu nào của những năm dài lưu lạc, tha hương. Anh Trương (và không ít những người Việt Nam di tản, tỵ nạn, thuyền nhân, vượt biên, lưu vong... khác), sẽ mãi phải bị phân vân cho tình huống ‘một cảnh hai quê’ của mình, anh sẽ mãi:

“Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ”
 
để rồi:
“Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà?”
(Trịnh Công Sơn, Một Cõi Đi Về)


ĐỖ THANH TÙNG
Tháng 9. 2024                                                                                                                                                                                                                       

CHÚ THÍCH:

Những chữ và câu trong ngoặc kép là nguyên văn của Trương Vũ.

THU, sơn dầu trên bố, 40”x 32”, 
phác hoạ 2023 (Virginia) hoàn tất 2024 (Sài Gòn)