Saturday, July 27, 2024

3506. NHỮNG BÀN TAY Truyện ngắn Sherwood Andersen Nhà văn Mỹ (1876-1941) THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu

Nhà văn Sherwood Andersen (1876-1941)

 

Life, Not Death, is the Great Adventure

“ Cuộc Sống, không phải Cái Chết, là Cuộc Phiêu Lưu Lớn Nhất.”

 

     Sinh tại Camdem, Ohio, một tỉnh lỵ nhỏ, là con thứ ba trong một gia đình đông con. Cả gia đình rời quê ngay sau khi ông ra đời để chuyển đến Caledonia, sống ở đó bốn, năm năm gì đó. Những năm này Sherwood ghi nhớ rất rõ và sau này ghi lại trong cuốn tiểu thuyết tự truyện Tar : A Midwest Childhood ( 1926 ).Tại Caledonia cha ông uống rượu rất nhiều dẫn đến khó khăn về kinh tế, rồi phải đi khỏi thành phố. Suốt mấy năm sau, cha ông chỉ vẽ quảng cáo để kiếm tiền, còn mẹ ông làm nghề giặt giũ. Cậu bé Sherwood phải làm đủ việc rồi bỏ học ở tuổi 14. Cậu bắt đầu nhận phụ việc buôn bán và tỏ ra lanh lợi thu hút được khách hàng. Cậu bán sách và nhân đó đọc những cuốn chưa bán được. Khi cậu được 18 tuổi, ông bố đi đâu mấy tuần liền, mẹ mắc bệnh lao rồi qua đời. Cậu lang thang tìm việc, cuối cùng tìm được chỗ làm ở một hãng nhỏ.

   Sau đó cậu theo anh đi Chicago và được nhận vào làm việc ở một nhà máy đông lạnh với đồng lương hai đô la cho một ngày làm mười tiếng. Cậu học thêm các lớp đêm, kể cả học toán, đạt điểm cao. Cậu đi dự các buổi đọc thơ của các nhà tho nổi tiếng. Lúc này Hoa Kỳ chuẩn bị cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha. Cậu gia nhập quân đội và được điều đi Cuba.

    Sau chiến tranh, Andersen làm nông một thời gian rồi quyết định đi học trở lại. Nỗ lực được đền đáp, cậu tốt nghiệp thứ hạng cao, được các giáo sư khuyến khích vào con đường văn chương và được giúp đỡ để làm việc trong các công ty của thầy. Những trang viết. đầu tiên của cây bút trẻ là khoảng 29 bài báo đăng trên một tạp chí nông nghiệp. Thời gian này Anderson phải đi nhiều nơi để tìm khách hàng và gặp được người vợ tương lai của mình.

    Trải qua nhiều thăng trầm với nhiều công việc khác nhau, cuối cùng Anderson in được cuốn tiểu thuyết đầu tiên,  Windy McPherson’s Son, vào năm 1916, được xem như cuốn tiểu thuyết thử nghiệm, một phần do chất lượng của nó.

     Anderson là một trong những tác giả tiểu thuyết của Mỹ đưa vào văn chương khái niệm tâm lý kiểu phân tâm hoc Freud.

      Tuy truyện ngắn bước đầu đã thành công, Anderson vẫn muốn viết tiểu thuyết. Năm 1920, ông viết Poor White rồi ba năm sau, cuốn Many Marriages, đề cập vấn đề tự do tình dục và còn tiếp tục vấn đề này trong những cuốn sau.

     Ông cộng tác với nhiều báo trong khi vẫn viết tiểu thuyết. Vài tuần trước khi qua đời, Anderson viết kịch bản truyền thanh cho tập đoàn The Free Company “ nhóm quy tụ các nhà văn xuất sắc và ngôi sao điện ảnh Hollywood “ đã giới thiệu một loạt mười ba kịch truyền thanh.

     Anderson mất ở tuổi 64. Năm 1988, con cháu ông thành lập “ Quỹ Sherwood Anderson “ tài trợ cho những cây bút có triển vọng.

       Anderson để lại 8 tiểu thuyết, 4 tuyển tập truyện ngắn, 2 tập thơ, ngoài ra còn có kịch và tác phẩm thể loại khác.

           Trong hồi ký của mình, Anderson viết rằng truyện Những bàn tay ( giới thiệu dưới đây) là truyện khởi đầu, truyện thực sự đầu tiên ông viết. Truyện được in lần đầu trên tờ The Short  Story of the Day, số ra ngày Thứ tư, 13 tháng 9 năm 2023.

           Truyện đề cập quan niệm về bàn tay con người và mang đến một loạt chủ đề, trong đó có chủ đề về sự cô lập. Wing được mô tả là một người bị xã hội ép không được sử dụng đôi bàn tay của mình để diễn tả cảm xúc vì ông từng bị hiểu lầm. Việc ông sử dụng đôi tay đã mang lại cho ông nhiều bất hạnh.

Trong hồi ký của mình, Andersen đã nhắc đến những phản ứng đầu tiên khi truyện được in năm 1919, tác giả bị lên án là “ bị ám ảnh bởi tình dục “. Tuy nhiên nhiều ý kiến lại cho rằng tác giả giải quyết vấn đề của nhân vật Wing Biddlebaum rất tế nhị. Ngay cả việc nhắc đến chuyện thầy giáo vuốt ve học sinh cũng có thể coi như vô tội.

Biểu tượng chính của truyện là những bàn tay, công cụ diễn đạt. Andersen kể rằng ông viết truyện này khi ngồi trong đêm tối đầy tuyết ở Chicago và ông không sửa một chữ nào


Bóng đá nam PARIS 2024 OLYMPICS.


BÓNG ĐÁ NAM
PARIS 2024 OLYMPICS 
GIỜ MIỀN ĐÔNG HOA KỲ

Friday, July 26, 2024

3505. NGUYỄN ĐỨC NHÂN Bài thơ viết giữa khoảng trời tháng tư


A lonely man - Photo corutesy of 123RF

I
tháng tư phơi ngực trần
em bước ra khỏi màu lá cây
ta gọi em xanh thảng thốt
vội cấp báo cho hoa cát tường.  hoa đỗ quyên.  các loài chim rừng
khẩn cấp đưa em ra khỏi vùng lốc xoáy nơi
tâm hồn ta đang
bốc cháy đỉnh ngọ
 
nầy em
nầy chim sẻ nâu
hãy đến trú ngụ
nơi căn nhà ta bỏ hoang từ muôn xưa
vùng ngoại ô hoàng hôn
cách vài giờ xe ngựa
ta nhờ em và chim sẻ nâu giúp
nhặt nhạnh những hạt lời thầm thì của ta rơi vãi nghìn thu
đem gieo trên đường cong -- đường cong không xanh đỏ tím vàng
đường cong.   cong bóng
thời gian
 
ôm mùa trôi thế kỷ
ta đang lắng nghe âm thanh tiếng chân rạng đông và
tiếng ngân của chiếc chuông nhỏ đã đi vào tận cùng xa vắng
không còn nhận tin tức từ các chòm sao
không hy vọng âm thanh quay trở lại chạm vào
xúc giác tháng tư
 
II
 
khám phá thẳm sâu
khuất sau lịch sử của chiếc lá vàng
rơi nghiêng khoảng trời tháng tư
ta vừa thấy
em và tảng đá
hô hấp biển chiều
phơi tấm lưng trần.  không mở cửa sổ
 
những tấm lưng trần không mở cửa
khó có thể phát sinh cảm giác tháng tư
ta đang cần nhiều cảm giác để
dựng lại tâm trạng của
những người bạn vắng mặt
 
III
 
hồ đồ
căn cứ chiếc ghế gãy dựa vào xó góc
căn cứ một ít mẩu bánh vụn
căn cứ chiếc đĩa đựng ít xương xẩu những con chữ sau bữa điểm tâm
căn cứ buổi chiều thứ bảy ốm đói sủa gâu gâu trước ngõ.  dẫn vào
đêm thế kỷ
họ đồn thổi quá khứ.  tương lai ta
 
nầy em.  nầy đá.  nầy biển.  nầy nắng.  nầy gió
nầy hoa cát tường.  nầy hoa đỗ quyên
nầy chim sẻ nâu
đừng
đừng biện hộ
hãy để ta sần sùi theo cách riêng.  và.  cứ để ta
nứt nẻ hiện thực
khoảnh khắc hiện tại
giữa khoảng trời tháng tư
đỉnh ngọ
chói chang
 
NĐN

3504. THÁNG BẢY VÀO HẠ sơn dầu Nguyễn Sông Ba, 60cm x 90cm

 


THÁNG BẢY VÀO HẠ
sơn dầu Nguyễn Sông Ba, 60cm x 90cm

Wednesday, July 24, 2024

3503. PHONG THÁI Tạp chí Bách Khoa - một góc nhìn.

Một số bìa Tạp chí Bách Khoa - Ảnh Phong Thái


HÀNH TRÌNH CỦA TẠP CHÍ BÁCH KHOA

Tạp chí Bách Khoa xuất bản tại Sài Gòn, ra số 1 - số đầu tiên - ngày 15 tháng 1 năm 1957, số cuối cùng là số 426 phát hành ngày 19 tháng 4 năm 1975, thời gian theo như ghi trên bìa 1 số 1 và trang 78, trang cuối số cuối, là 18 năm 3 tháng 4 ngày. 

Tên tạp chí – Quan niệm của nhóm chủ trương

Tên chính từ trước đến sau vẫn là BÁCH KHOA, nhưng qua từng chặng thăng trầm có ít nhiều chi tiết “phụ đề” kèm theo.

Thay lời phi lộ, ở Bách Khoa số 1 có đoạn:

 “… BÁCH KHOA không có tham vọng vạch sẵn một đường lối, một chủ trương hoàn hảo, nhưng  có mục đích đóng góp một chút công, một chút lòng thành cùng toàn thể trong công cuộc chấn hưng đất nước. BÁCH KHOA hi vọng sẽ được sự giúp đỡ của mọi người về mọi ngành…” (BK-số 1/15-1-57/tr.1)

Trong “thay lời phi lộ” ấy, Bách Khoa cho rằng kinh nghiệm của người thợ cũng ích lợi như lý thuyết của một nhà khoa học, những nhận xét mộc mạc và chính xác của người dân cày vẫn có giá trị  cao quý; không cần phải cùng một tôn giáo, một quan điểm chính trị, một tổ chức chặt chẽ… quan trọng là thiện chí, lòng thành thật xây dựng và một ý niệm khiêm tốn. “Chủ yếu là cùng một lòng “Nhân”, lòng thương người với đầy đủ ý nghĩa của nó…” (BK-số1/15-1-57/tr.2)

Do thời cuộc thay đổi, do quyết định của các Bộ Thông tin và chính sách quản lý báo chí thời ấy, Bách Khoa có các “phụ đề” như sau đây.

Từ số 195 (15-12-1965) đổi thành BÁCH KHOA THỜI ĐẠI.

Hai chữ BACH KHOA vẫn in lớn, hai chữ THỜI ĐẠI nhỏ, in bên dưới hay bên cạnh tên chính.

Tên phụ “Thời Đại” chấm dứt ở số 312 (1-1-1970). Từ số 313-314 (15-1 và 1-2-1970) trở lại tên BACH KHOA. 

Do luật báo chí mới, đến số 377 (15-9-1972)  Bách Khoa không còn được hưởng quy chế tạp chí xuất bản định kỳ.

Hai số 378 (1-10-1972) và 379 (15-10-1972) thành Đặc san BÁCH KHOA. Tên chính in như cũ, hai chữ Đặc san in nhỏ.

Từ số 380 (1-11-1972) đến số cuối 426 (19-4-1972) là Giai phẩm BÁCH KHOA. Hai chữ Giai phẩm dù lớn hơn các chữ Thời Đại, Đặc san trước đây vẫn nhỏ hơn nhiều so với hai chữ BACH KHOA.

Giai phẩm không được ghi số, nên về sau Tòa soạn ghi các ký hiệu, bạn đọc nhìn đó hiểu được. 

Mỗi số báo, sau trang Mục lục Trong số này là trang giới thiệu Trong những số tới.

Theo định kỳ bán nguyệt san, Bách Khoa xuất bản vào các ngày 1 và 15. Nhưng không ít lần phải ra trễ hạn, nhất là về sau, do chờ đợi kiểm duyệt, ngày phát hành có chênh lệch, nhưng tòa soạn và bạn đọc vẫn coi đó là số báo của ngày 1 và 15 hàng tháng.

Mỗi năm, đến kỳ “sinh nhật” (15 tháng 1) tạp chí Bách Khoa ra số đặc biệt kỉ niệm đệ … chu niên. Ngoài ra còn những số đặc biệt khác, như số mùa Xuân, kỷ niệm    100 năm báo chí Việt Nam, đặc khảo về Đức Phật, về Nguyễn Du, về Phan Chu Trinh… 

Mỗi số báo thường khoảng 90 đến 100 trang. Tùy theo thời điểm có khi thấp hơn hoặc vượt cao hơn.

Trong số kỉ niệm một năm, bài viết ở trang đầu Bách Khoa ghi nhận những ưu khuyết điểm về nội dung và hình thức do bạn đọc nêu ra:

“… Những lời phê phán trên đây rất xác đáng, Bách Khoa xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn và ước mong số đặc biệt ra mắt các bạn hôm nay sẽ chứng minh nỗ lực của Bách Khoa cải tiến về mọi mặt, cũng như thiện chí của Bách Khoa tiếp nhận mọi ý kiến phê bình xây dựng, cố gắng phát triển các ưu điểm, khắc phục lần lần các khuyết điểm, để đền đáp muôn một thịnh tình của các bạn thân mến…” (BK-số 25+26/15-1-58/tr.2-3)

Trong số kỉ niệm 5 năm, Bách Khoa sơ kết số bài đã trình bày qua từng bộ môn, đề mục và xác nhận:

“…Tạp chí Bách Khoa là một diễn đàn rộng rãi, sẵn sàng tiếp nhận mọi ý kiến xây dựng về chính trị, kinh tế, cũng như văn hóa, xã hội…

Tạp chí Bách Khoa cũng chú trọng trình bầy những vấn đề thời sự, phổ biến những kiến thức mới mẻ, giới thiệu những trào lưu tư tưởng hiện đại, cung cấp những tài liệu có lợi ích mật thiết đến mọi tìm hiểu cùng mọi khía cạnh đời sống hiện thời của bạn đọc, và cống hiến các bạn yêu văn nghệ những sáng tác và dịch phẩm chọn lọc, cố gắng phản ảnh được nhiều xu hướng nghệ thuật dị biệt ngày nay…” (BK-số 121/15-2-62/tr.1-2).

Trong số kỉ niệm 100 năm báo chí Việt Nam, Bách Khoa “phác họa sơ lược những giai đoạn trưởng thành của báo chí nước nhà từ thời xuất hiện đơn chiếc tờ Gia Định báo” và nói về tâm sự người làm báo…

 “… Qua những bài về báo chí hôm qua, hôm nay, về kỷ niệm, tâm sự của người cầm bút, bạn đọc cũng thấy được một vài phần những vui buồn, say mê, cam go của nghề làm báo, của người ký giả xưa và nay. Có người bước vào làng báo để tìm tới công danh sự nghiệp thì cũng có người quay lưng lại sự nghiệp công danh để tìm vào đường ngôn luận, và hiện nay nếu có những người thiếu lương tâm đã làm ô danh nghề nghiệp thì cũng có những người đã vì nghề nghiệp mà bị bắt bớ giam cầm, bị gục ngã ngoài mặt trận, hoặc bị hạ sát chỉ vì không chịu khuất phục trước kẻ bạo hành…” (BK-số 217/15-1-66/tr.3-4)

Trong số kỷ niệm 18 năm: “Bách Khoa đã bước sang năm thứ 19 bằng những bước thực là chật vật và cực nhọc” vì giá giấy, chi phí ấn loát, mãi lực của bạn đọc giảm sút, và tất nhiên do chiến cuộc.

“… Tuy nhiên vào ngày đầu năm dương lịch và cuối năm âm lịch này, số Bách Khoa Xuân còn được xuất hiện để đến tay bạn đọc là do sự ủng hộ nhiệt thành của quý bạn, dầu báo đã trở thành giai phẩm được 2 năm 4 tháng, xuất bản không kỳ hạn nhất định, và nhiều khi phải bỏ đi cả chục trang, không chạy được. Nếu không có sự thông cảm và tin yêu bền bỉ của bạn đọc, nếu không được sự giới thiệu và cổ động hồn nhiên của quý bạn thì chắc chắn Bách Khoa không thể tồn tại đến hôm nay…” (BK-số 421-422/24-1-75/tr.9)

Trong số cuối cùng, Bách Khoa nhắc đến tên từng tác giả Miền Trung đã cộng tác nhiều năm, một cách thân tình.

Mỗi kỳ tạp chí có thay đổi, thêm bớt vài tiểu mục, nhưng thường thường có ba phần chính với các tiểu mục là:

-Biên khảo, nghị luận: Chính trị . Giáo dục . Khoa học . Kinh tế tài chính . Văn hóa . Nghệ thuật . Ngôn ngữ . Sử địa . Tôn giáo . Triết học . Tiểu sử danh nhân…

-Văn nghệ: Đàm thoại . Phỏng vấn. Tùy bút . Hồi ký . Bút ký . Đoản văn . Truyện ngắn . Truyện dài . Thơ. Kịch. Điểm sách . Giới thiệu sách…

-Sinh hoạt: Nếp sống nước ngoài . Thời sự thế giới . Thời sự khoa học . Thời sự văn nghệ…

Quản nhiệm – Chủ nhiệm – Chủ bút

Từ số 1 (15-1-1957) trang bìa 4 ghi:

Chủ nhiệm : HUỲNH VĂN LANG, hợp tác cùng các bạn (kê đủ tên 28 người).

Đến số 195 (15-2-1965) ghi:

Chủ nhiệm:   Sáng lập:       Huỳnh Văn Lang

Quản nhiệm:  Lê Ngộ Châu

Đến số 240 (1-1-1967) ghi: Chủ nhiệm: Lê Ngộ Châu.

Số 377 (14-9-1972) ghi:

Sáng lập: Huỳnh Văn Lang – Hoàng Minh Tuynh

Chủ trương: Lê Ngộ Châu

Từ số đặc san 378 (1-10-1972)  đến số cuối cùng 426 (19-4-1975) ghi:  

Chủ trương: Lê Ngộ Châu.

Tên ông Lê Ngộ Châu chính thức xuất hiện trên bìa báo và trang trong từ  BÁCH KHOA THỜI ĐẠI số 195 (15-2-1965): Quản nhiệm. Sau đó trải qua các vị trí: Chủ nhiệm, Chủ nhiệm + Chủ bút, Chủ trương. Nhưng ông đã đóng vai trò trụ cột của tạp chí từ khi tòa soạn đặt tại 160 Phan Đình Phùng.



Một số bìa tạp chí Bách Khoa - Ảnh Phong Thái

Trong bài Gia đình Bách Khoa và một Lê Ngộ Châu khác đăng trên Trang Văn học Nghệ thuật Phạm Cao Hoàng (tháng 7-2021), Bs nhà văn Ngô Thế Vinh viết:

“Từ năm 1958, ông Lê Ngộ Châu được giới thiệu với Chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vào làm cho Bách Khoa như một Thư ký Tòa soạn. Trên thực tế, từ đây Lê Ngộ Châu là người trực tiếp điều hành tờ Bách Khoa, cho dù Chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang vẫn đứng tên…”

Ngô Thế Vinh còn cho biết nhiều người đồng thuận với nhận xét của ông:

“… Điều hành tờ Bách Khoa trong bấy nhiêu năm, tuy anh Châu không có bài viết nào ký tên mình ngoài một bút danh chung “Bách Khoa”, nhưng tất cả các bài vở gởi đến đều được anh Châu trân trọng đọc …  Bài nào được chọn đăng đều có bút tích của anh Lê Châu sửa lại cho hoàn chỉnh, anh không bao giờ nói ra điều đó với ai.

“…Với những tác giả mới, anh Lê Ngộ Châu có sự nhạy bén phát hiện tài năng rồi cả gợi ý đề tài cho người viết. Anh Châu ẩn nhẫn làm công việc tòa soạn bằng cái lòng chân thật yêu chữ nghĩa…”

Trong “Một chương hồi ký” (tác giả xuất bản năm 1999) ông Huỳnh Văn Lang viết:

“…Trong thời gian (làm Tổng Giám đốc Viện Hối đoái 1955-63) tôi có dạy trường đại học Sư phạm Sàigon, lập Hội Văn hóa Bình dân, mở trường Bách khoa Bình dân ở trường Tôn-thọ-Tường, trước cửa rạp hát Đại-nam, và có chi nhánh nhiều nơi, như Chợ-lớn, Gia-định, Mỹ-tho, Vĩnh-long, Bảo-lộc, Đà-lạt, Nha-trang và Huế, có lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Bách-khoa … Tôi có công khai sanh tạp chí Bách khoa ra và nhứt là gìn giữ nó luôn luôn được đứng trong cương vị độc lập và tự do tư tưởng, đang khi phần lớn báo chí khác đều nằm trong tay bồi bút của chế độ. Nhưng công khó xây dựng Bách khoa cho trưởng thành là của anh Lê-ngộ-Châu. Đương nhiên sự nghiệp văn hóa của anh phải lớn hơn tôi nhiều…” (tr. 61 và 361).

Tóm lại, người sáng lập tạp chí Bách Khoa là ông Huỳnh Văn Lang, người điều hành từ năm 1958 đến cuối cùng với danh nghĩa Quản nhiệm – Chủ trương, làm cả công việc Chủ nhiệm, Chủ bút là ông Lê Ngộ Châu. Một số người, trong đó có nhà văn từng cộng tác với Bách Khoa, viết trên các trang mạng rằng ông Lê Ngộ Châu sáng lập tạp chí Bách Khoa là không đúng.

Ông HUỲNH VĂN LANG sinh ngày 26-7-1922 (Nhâm Tuất). Quê quán: Trà Vinh. Gia đình địa chủ, công giáo toàn tòng. Du học Pháp. Công chức thời đệ nhất Việt Nam Cộng hòa. Giám đốc Viện Hối đoái. Qua đời ngày 12-3-2023 . Sách đã xuất bản được đọc nhiều: Nhân chứng một chế độ - Chuyện đường rừng (hồi ký).

Ông LÊ NGỘ CHÂU sinh ngày 30-12-1923 (Quý Hợi). Quê quán: làng Phú Tài huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam. Nguyên Hiệu trưởng một Trung học tư thục tại Hà Nội. Qua đời ngày 24-9-2006 (Bính Tuất) tại Sài Gòn. Những bài ông viết trên Bách Khoa không ký tên, chỉ ghi: Bách Khoa.

Bài vở - Trình bày – Minh họa

Giai đoạn đầu không thấy tạp chí ghi tên những người phụ trách bài vở tại Tòa soạn, cho đến số 76 (1-3-1960) ở trang trong chỉ ghi địa chỉ tòa soạn vThư từ và bài vở xin gởi cho:

Tòa soạn Bách Khoa

Hộp thư số 339 SaiGon.

Từ số 324 (1-7-1970) về sau ghi rõ hơn:  

Thư ký Tòa soạn – Tòa soạn, hoặc Bài vở: Tôn Thất Hàm

Tiền bạc: Nghiêm Ngọc Huân – Nguyễn Huy Nhân     

Như vậy, ngoài bà Lê Ngộ Châu (Nghiêm Ngọc Huân) có 2 người trong Tòa soạn cùng lo việc thu nhận bài vở và quản lý tiền bạc: Tôn Thất Hàm, Nguyễn Huy Nhân. Một người nữa là nhà thơ Xuân Hiến trong thời gian đầu (khoảng 10 năm) phụ trách việc chọn thơ đăng.

Trình bày bìa: Từ số đầu tiên đến số 381 (15-11-1972) hầu hết trang bìa đều trình bày đơn giản, bên trên là hai chữ BACH KHOA (hoặc thêm THỜI ĐẠI, ĐẶC SAN), phần dưới là nền màu mục lục tác giả và đề bài rồi số báo.

Chỉ những số đặc biệt mới trình bày tranh vẽ và ghi tên họa sĩ.

Từ khi thành giai phẩm thì mỗi kỳ đều có trình bày các tranh họa hay hình ảnh của các tác giả nổi tiếng.

Các họa sĩ trình bày và minh họa là: Phạm Tăng, Phạm Thăng, Văn Thanh, Diệp Đình, Lâm Triết, Tạ Tỵ, Nghiêu Đề… với nhiều bức ảnh của Nguyễn Cao Đàm, Lại Hữu Đức, Võ An Ninh, Nguyễn Khoa Lợi, Văn Kỉnh, Nguyễn Lưu…

Tòa soạn

Từ số 1 (15-1-1957): Tòa soạn đặt tại 55, Bà Huyện Thanh Quan, Phòng 42. Sài Gòn.

Từ số 6 (1-4-1957): Số 412-414 – đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.

Từ số 40 (1-9-1950) đến số cuối 426 (19-4-1975): Số 160, Phan Đình Phùng, Sài Gòn. (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu).

Khuôn khổ

Báo in khuôn khổ 16 x 24cm.

Đặc biệt có 3 số vì không có giấy cỡ ấy, phải in khổ 14,5 x 21,5cm. Đó là 3 số: 231 (15-8-1966), 232 (1-9-1966) và 233 (15-9-1966).

Từ số 234 trở lại khuôn khổ trước.

Nhà in

Từ số 1 (15-1-1957) in tại nhà in An Ninh (Maurice cũ), số 14 đường Nguyễn An Ninh, Sài Gòn.

Từ số 16 (1-9-1957) nhà in Văn Hóa, số 412-414, đại lộ Trần Hưng Đạo, Sài Gòn. Trong đó, số 25 + 26 (15-1-1958) nhà in Đông Nam Á, Sài Gòn.

Từ số 195 (15-2-1965) nhà in Tương Lai, số 133 đường Võ Tánh, Sài Gòn.

Từ số 332 (1-11-1970) đến số cuối cùng 426 (19-4-1975) nhà in Trí Đăng, số 21 đường Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn.

Nhuận bút – Báo biếu

Mỗi bài đăng trên tạp chí Bách Khoa đều được trả nhuận bút kịp thời và có báo biếu (3 tháng). Các cộng tác viên thân tín, tức là đã có bài đăng thường xuyên một thời gian, thì được nhận báo biếu thường xuyên, riêng số tạp chí có bài đăng được tặng 2 bản. Về sau, nếu vì một lý do nào đó, tác giả ấy không gởi bài đăng vẫn nhận được đầy đủ báo biếu.

Trong thời gian này, ở Sài Gòn chỉ các nhật báo, tuần báo có thu nhập cao và một số tạp chí trả nhuận bút sòng phẳng. Nhiều tạp chí, nhất là các tạp chí văn nghệ (và tạp chí xuất bản tại các tỉnh) không được phân phối giấy in, số lượng phát hành ít, bị lỗ, nợ nhà in, không có tiền trả nhuận bút, cộng tác viên gởi bài đăng vì tình nghĩa, hoặc có một chút danh nho nhỏ, cho vui!

Giá báo – Số lượng phát hành

Giá báo ban đầu, từ số 1 (15-1-1957):            mỗi số 8$ - công sở 10$ - mua dài hạn 6 tháng hay một năm được giảm xuống, thấp hơn. Theo thời gian vật giá tăng nên giá báo cũng tăng: 10$, 12$, 15$, 20$, 25$, 30$, 40$, 50$, 70$, 80$, 100$, 120$, 150$, sau hết là 200$. Giá bán cho công sở vẫn cao hơn.

 Số lượng phát hành bình thường là 4.000 bản, lúc thấp còn 3.000 bản, lúc cao nhất là 8.000 bản.

Việc kiểm duyệt – Tịch thu

Giai đoạn đầu, tạp chí Bách Khoa có những số không ghi kiểm duyệt. Giai đoạn Bách Khoa Thời Đại có ghi số ngày kiểm duyệt. Đến giai phẩm Bách Khoa ghi số kiểm duyệt và ngày phát hành.

Những đoạn, những bài bị kiểm duyệt bỏ không được in Tòa soạn phải làm như (một số trường hợp nêu ra) sau đây.

Vì báo sắp chữ nên những chỗ ấy thợ in rút các chữ chì lên rồi quay ngược lại. Phần bị kiểm duyệt thành một mảng dài những hàng đen, trông không đẹp mắt chút nào. Như bài Luật lệ báo chí của Trần Thúc Linh trên Bách Khoa Thời Đại số 217 (15-1-1966) bị kiểm duyệt 4 dòng đầu cột 2 trang 85, 9 dòng giữa cột 1 trang 86 và 6 dòng giữa cột 2 trang 86.

Cũng trong số báo này, bài Những đêm dài nhất ở Tòa soạn của Vũ Dũng bị bỏ trọn, để trống 2 trang 139 – 140. Bài của Chu Tử, Thương Sinh cũng bị bỏ mấy dòng.

Về sau, các nhật báo phải cho vào chỗ ấy mấy chữ “Tự ý đục bỏ”. Các tạp chí thì thường đưa vào một hình vẽ vô thưởng vô phạt “coi như minh họa” hoặc in khít lại, không được để trống.

Số 391 (11-5-1973) bài Bài học xứ Lào: Chiến tranh và hòa bình của Phạm Việt Châu nhiều chỗ ở các trang 9, 10, 11, 12, 13 tránh không chừa trống phải đưa vào các tranh vẽ nho nhỏ “coi như minh họa”.

Số 402-403 (11-1-1974) bài thơ Tết đến Hòa Bình với Đỗ Chu Thăng của Trần Huiền Ân trang 128 bị kiểm duyệt bỏ mấy khổ đầu, phần bị bỏ chỉ được thay bằng một hàng dấu chấm. 

Có khi bài bên trong bị rút bỏ nhưng Tòa soạn vẫn giữ đầu đề ở mục lục ngoài bìa. Như số 393 (23-6-1973) bài của Phạm Lương Giang chỉ còn tên tác giả nơi mục lục, không có đề bài, số 394 (14-7-1973) bài thơ Những dãy hành lang buồn bã của Mang Viên Long thì có tên bài và tác giả, bên trong không có.

Bách Khoa có một lần bị tịch thu là số 359 (15-12-1971) đăng bài “Truyện Tàu thế kỉ 20: Tể tướng Chu Ân Lai” của Như Phong. Trước khi có lệnh tịch thu Tòa soạn đã gởi biếu các cộng tác viên nên số báo ấy vẫn được lưu hành, tuy có phần hạn chế - từ các cộng tác viên phổ biến ra.

MỘT GÓC NHÌN

Tạp chí Bách Khoa có một nội dung phong phú gồm các tiết mục như có nêu ở đoạn trên. Trong đó, có một số bài biên khảo, nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, phong tục, lễ hội, các nghề trong đời sống dân chúng thôn quê và miền biển, các sắc tộc thiểu số…

Số bài trong thể loại này không được nhiều, tòa soạn không đặt ra một mục thường xuyên, hay một lệ, vào những lúc nào thì phải đăng bài. Không được nhiều, nhưng không phải là ít. Các tạp chí khác như Văn, Văn Học, Giữ thơm quê mẹ… thì chuyên về sáng tác, phê bình, giới thiệu tác phẩm, tạp chí Quê Hương chuyên về lãnh vực chính trị, tạp chí Chỉ Đạo chỉ dành một số trang có hạn cho sáng tác, hai tạp chí Phổ ThôngThời Nay cũng đa diện, Phổ Thông chú ý các vấn đề văn hóa, giáo dục, Thời Nay chú ý các vấn đề khoa học tân tiến, nhưng nói thật lòng thì cả hai chưa có tác động trong quần chúng độc giả bằng Bách Khoa.

Trong một bài phiếm luận Đầu năm xông đất trên giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay số Xuân năm 1960 tác giả Duy Lam gọi đùa tạp chí Bách KhoaTrăm Khoa, ngầm chê có phần ôm đồm, trăm khoa mà không có một mục đích. Duy Lam đã “hư cấu” câu trả lời của người chủ trương tạp chí Trăm Khoa vào dịp đầu Xuân: “Báo chúng tôi chỉ là báo trăm khoa, nghĩa là cái gì cũng có, cũng đả động tới, nhưng chúng tôi không có mục đích”.

Thật ra, mục đích của Bách Khoa đã nêu rõ trong Lời nói đầu và mỗi kỳ kỷ niệm chu niên. Phần những trang trước của Bách Khoa là bình luận các vấn đề chính trị, thế giới, nghiên cứu văn học, giáo dục, phần những trang sau là sáng tác, sinh hoạt, có một giai đoạn theo sự bắt buộc phải đăng “tin tức 15 ngày qua” nữa. Bách Khoa là tạp chí có tuổi thọ lâu nhất ở Miền Nam (1957-1975).

Bằng sự điều hành khéo léo ông Lê Ngộ Châu đã mời gọi được sự cộng tác của các bậc trí thức lão thành, các học giả uyên bác, cũng như những cây bút trẻ năng nổ, linh hoạt, để tạo ra một nội dung phong phú, được mọi giới bạn đọc yêu chuộng. Số bài nghiên cứu, sưu tầm về văn hóa, văn nghệ dân gian, so sánh theo tỷ lệ không phải là ít.

Phần nghiên cứu có tính cách tổng quát về văn nghệ dân gian Miền Nam, đã ghi nhận những nét nhìn chân xác. Văn nghệ dân gian Miền Nam bắt đầu từ “ngã rẽ Nguyễn Hoàng”, khi cõi Nam Hà được lập thành riêng núi riêng sông. Định lại giá trị văn học không có nghĩa là trao cho nó một huy chương cổ điển để rồi nó chết lạnh ở đó. Cho đến hôm nay, những người sưu tầm nghiên cứu văn nghệ dân gian Miền Nam vẫn đang tiếp tục công việc với những điều kiện thuận lợi hơn trước rất nhiều. Văn nghệ dân gian Miền Nam được phổ biến qua truyền khẩu: nói/đọc, và người thưởng thức, cảm nhận bắng cách nghe chứ không phải xem.

Do việc truyền khẩu, các tác phẩm được đại chúng hóa, vượt qua giới hạn bản quyền cá nhân, ai cũng có thể trình diễn (nói/hô/hò…) và có thể tự động thay đổi, thêm bớt năm ba từ cho hợp với hoàn cảnh thực tế. Điều đó, một mặt thể hiện tình cảm phóng khoáng của người dân Miền Nam, không chấp nhất, không câu nệ, vui sống cùng nhau một cách thoải mái.

Một điểm quan trọng trong văn nghệ dân gian Miền Nam là ý thức phản kháng, chống lại các thế lực thực dân và tà quyền. Trong các sáng tác, cụ thể là các bổn thơ, một số là phóng tác, hư cấu dựa theo truyện xưa tích cũ để nói, một số là chuyện thời sự đương đại, việc thật, người thật. Những tác phẩm này đưa ra lời khen với các bậc trung nghĩa, cả những tay anh chị thảo khấu hảo hớn, miễn là có gan chống đối các thế lực thống trị, không kể nguyên nhân chống đối là vì cộng đồng hay cá nhân, đồng thời chê những kẻ ham danh lợi, dua nịnh theo Tây để trục lợi giàu sang.

Những bài về dân ca, nhạc cụ… trong phạm vi một bài báo, các tác giả chỉ có những nhận định khái quát, không thể đi sâu vào chuyên môn. Tuy nhiên các tác giả cũng đã có những trao đổi về hát chèo, hát quan họ, hát trống quân, nguồn gốc câu vọng cổ… cùng làm sáng tỏ thêm vấn đề đang được quan tâm, cũng như đề cao tính cộng đồng trong việc biểu diễn và mong mỏi các hình thức dân ca được phổ biến rộng rãi để đáp ứng đúng tính truyền thống của nó.

Những bài về Đất Nước – Quê Hương do các tác giả sinh trưởng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, vì hoàn cảnh phải cách xa nên gởi gắm vào những dòng chữ, những trang viết tình thương nhớ làng xóm thân yêu thật sâu đậm. Đồng thời, giúp cho bạn đọc Miền Nam biết được nhiều hội hè mùa Xuân Miền Bắc với các phong tục khác lạ mang đậm tính luyến ái và tính chiến đấu.

Cũng trong phần này, bạn đọc biết được những phiên chợ Tết đặc biệt trong cả nước, đôi nét về sự thay đổi y phục theo thời gian, cũng như nguồn gốc một số địa danh thuộc Nam Bộ. Bên cạnh đó, loạt bài về tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa gây ra nỗi bàng hoàng xúc động dù sự việc tàn ác của một số chủ mành không còn nữa.

Một số tác giả khai thác ca dao, hò vè nói về hội ngộ, giao kết và hôn nhân ở Miền Nam, cùng các giai thoại vui vui trong giới bình dân. Một số bài viết đăng trong các kỳ báo Xuân, chuyện các con giáp: con chuột, con trâu, con chó, con heo để bạn đọc “thư giãn”, chuyện nuôi sâu độc từ râu cọp, chuyện chữa bệnh cho voi… cho thấy hủ tục một thời, đặc biệt là qua đó biết phần nào tình hình Đông Dương đầu thập niên 1940 và mánh lới đặc biệt của bọn buôn lậu xuyên quốc gia đã dùng voi thông minh làm phương tiện vận chuyển, tránh mắt quan thuế.

Dấu ấn của văn chương bình dân trong văn chương bác học được dẫn ra một cách cụ thể, so sánh một số câu trong truyện Kiều, truyện Trinh Thử lấy văn liệu từ ca dao, tục ngữ. Câu chuyện Thằng Bờm với cái quạt mo chưa bị lãng quên. Vấn đề ngôn ngữ địa phương, cách phát âm theo Miền Nam, cách viết quốc ngữ bị cho là sai v.v… Tri thức dân gian trong nghề nghiệp, như việc dùng trái mặc nưa nhuộm vải mỹ a tạo thành một món hàng đặc sản giá trị… rất nhiều từ ngữ liên quan đến chài lưới, và tên các loại hải sản từ Vũng Tàu ra Nam Trung Bộ … Các vấn đề này tuy rải rác cũng giúp bạn đọc tăng thêm sự hiểu biết về tri thức dân gian, văn học dân gian, về văn hóa phi vật thể và văn hóa vật chất tại vùng nông thôn và duyên hải.

Về văn hóa, văn học các dân tộc thiểu số, tạp chí Bách Khoa đã gióng lên tiếng nói kêu gọi sự quan tâm đến miền núi, sưu tầm, bảo tồn các chuyện cổ, trường ca, nghệ thuật hát khan.

Loạt bài về dân tộc Chăm đăng tải nhiều kỳ rất đầy đủ, từ danh xưng, lãnh thổ định cư, dân số, các vị lãnh đạo tinh thần thôn ấp, ngôn ngữ, y phục, vòng đời con người, từ buổi sơ sinh qua bước trưởng thành, hôn nhân, đến khi tử vong, chuyện mê tín dị đoan… cả việc đặt tên họ tùy thời điểm nữa. Từ trước đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đầy đủ hơn. Có một số công trình có giá trị, nhiều chi tiết, cập nhật, nhưng mỗi công trình chỉ nghiên cứu về một mặt, nên có thể nói trong hiện tình, loạt bài này vẫn có giá trị độc đáo, nhất là khi cần đối chiếu sự tiến bộ qua bước thời gian hơn nửa thế kỷ.

Ngoài ra, rải rác khắp nhiều bài các tác giả đã nêu ra những điều hữu ích trong nguồn tri thức dân gian, giúp người đọc thêm hiểu rõ khi tiếp cận với địa phương ấy, nghề nghiệp ấy hay trường hợp ứng xử, giao tế.

Điều đặc biệt dễ dàng nhận thấy là tất cả các tác giả qua các bài viết, dù theo đề tài nào, thể loại nào, đều nêu cao tinh thần Dân Tộc Độc Lập, Tự Chủ, Tự Quyết, chống lại mọi áp đặt phi lý từ bên ngoài, chống lại các thế lực ngoại xâm của Phương Bắc và Phương Tây.

Nói tóm lại, phần nghiên cứu về văn hóa – văn nghệ dân gian trên tạp chí Bách Khoa đem tổng kết lại, có thể góp phần hữu ích cho giới nghiên cứu nói riêng, và cộng đồng dân chúng nói chung, cho dẫu một số đáng kể trong cộng đồng dân chúng chỉ tiếp nhận với mục đích giải trí, tìm đôi giây phút vui vui…

PHONG THÁI

3502. Ngô Thế Vinh CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI NGÀY 5 THÁNG 8 NĂM 2024 LỄ ĐỘNG THỔ KÊNH FUNAN TECHO



Bấm vào đường dẫn dưới đây để dọc:

Tuesday, July 23, 2024

3501. PHAN TẤN HẢI Việt Dương & Trần Thị Nguyệt Mai Với “Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ”

Tôi hân hạnh có cơ duyên đứng nơi đây để nói về một tuyển tập gần 400 trang, có tên là “Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ” của hai nhà văn Việt Dương và Trần Thị Nguyệt Mai. Có thể tóm gọn cơ duyên về sách này như thế nào? Nếu nói ngắn chỉ một câu, thì cuốn sách này là một niềm vui thật to lớn, không bút nào tả được, theo lời Trần Thị Nguyệt Mai.

Trong phần “Thay Lời Tựa: Duyên Khởi,” Trần Thị Nguyệt Mai kể về cơ duyên hình thành sách này: “Nơi đây xin chân thành cảm ơn anh Việt Dương đã cho Nguyệt Mai được góp mặt, cũng là lần đầu tiên trở thành đồng tác giả một cuốn sách. Niềm vui ấy thật to lớn, không bút nào tả được. Hy vọng qua tập sách Chân dung Ngày Đó Bây Giờ bạn đọc sẽ tìm ra, biết được thêm về những khía cạnh thú vị trong cuộc đời của những chân dung mà bạn đã từng yêu mến, ngưỡng mộ.”

Những chân dung nào mà bạn đã từng yêu mến và ngưỡng mộ? Đúng vậy. Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu. Nơi này xin kể một chuyện: thời tôi học Lớp 12 B tại Trung Học Chu Văn An, nhà thơ Vũ Hoàng Chương dạy ở Lớp 12 C. Với lòng ngưỡng mộ tột cùng, một hôm tôi liều mạng chen vào học một giờ ở lớp Thầy Vũ Hoàng Chương. Hình ảnh thầy Chương đẹp, thơ mộng, nhưng cách dạy của Thầy không có gì như thơ của Thầy. Đó là một kỷ niệm đẹp, và bây giờ, GS Trần Huy Bích đã có những công trình rất độc đáo về nhà thơ Vũ Hoàng Chương. Cuốn sách này viết về GS Trần Huy Bích phải nói là tuyệt vời.

Một ngọn núi khác, trong tuyển tập “Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ” cũng là nhà nghiên cứu Ngô Nhân Dụng, người tôi may mắn có giao tình để gọi là “anh Đỗ Quý Toàn” người đã soạn ra bộ sách “Đứng Vững Ngàn Năm” – một nghiên cứu mà ngay khi ấn hành đã trở thành kinh điển, đáp ứng nhu cầu cần thiết phải đưa vào dạy trong các đại học Việt Nam để hiểu vì sao chúng ta bị người phương Bắc cai trị cả ngàn năm mà chưa bị đồng hóa. Hay là nhà văn Ngô Thế Vinh với cuộc đời rất mực sóng gió của một y sĩ quân đội và rồi cuối đời trở thành một nhà nghiên cứu thâm sâu về Sông Mekong và tác động tới đời sống của hàng chục triệu đồng bào Miền Tây. Hình ảnh nhà văn Ngô Thế Vinh làm tôi tự thấy xấu hổ, vì bản thân mình không quan tâm, không nghĩ xa cho đồng bào mình như anh. Tất cả chúng ta hãy hình dung rằng, một y sĩ quân đội, anh Ngô Thế Vinh, sau nhiều năm tù cải tạo, cặm cụi đọc sách về môi trường, về tác dụng của sông, của núi, của các đập thủy điện, và rồi về lại quê nhà để đi dọc theo Sông Mekong (trời ạ, có mấy ai chịu đi như thế, mà đi để nhìn xem vận mệnh các ruộng lúa Miền Tây). Để rồi suy đoán về các âm mưu của đại cường phương Bắc, anh Ngô Thế Vinh đã về lại Hoa Kỳ, ngồi viết, kêu gọi cứu sông, cứu ruộng, cứu đồng bào Miền Tây. Hy hữu là như thế.

Hay là nhà thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc là một người cầm bút đa tài, là một bác sĩ nhạy cảm và là một nhà thơ lớn, một người sống và viết như một tượng đài Phật học. Hay là cuộc đời của nhà văn Trần Hoài Thư và công trình Thư Quán Bản Thảo, một kho tàng văn học trước 1975 của Miền Nam được anh chị Trần Hoài Thư miệt mài sưu tầm, đánh máy lại, chụp hình lại để bây giờ chúng ta được đọc lại những tác phẩm lẽ ra là mất tích theo bụi thời gian. Hãy hình dung rằng, mới hai thập niên trước, chúng ta chưa có Internet, chưa có máy laptop, và tôi nhớ thời đó máy đánh chữ thì xong rồi, mà là một kiểu máy có ổ dấu chữ khổng lồ. Vậy mà, nhà thơ Trần Hoài Thư đã ghi lại được phần rất lớn của kho tàng văn học Miền Nam 1954-1975. Nếu không có công trình đó, ký ức văn học của chúng ta hẳn là đã bị xóa trắng rất nhiều.

Trong tuyền tập cũng viết về họa sĩ Đinh Cường, nhà thơ Thành Tôn, bình luận gia Lý Đại Nguyên, họa sĩ Vị Ý, họa sĩ Khánh Trường, Đào Mộng Nam và Phạm Xuân Hy, Nguyên Minh, họa sĩ Trương Vũ, BS Đinh Xuân Dũng, nhà thơ Phan Lạc Giang Đông, nhà thơ Phạm Thiên Thư.

Tôi đã học rất nhiều từ sách này của Việt Dương và Trần Thị Nguyệt Mai. Tuyển tập sách này đã đưa tôi đi từ kinh ngạc này tới kinh ngạc khác. Bản thân tôi là nhà báo khoảng ba mươi năm nay, hàng ngày đọc nhiều, công việc phải giao tiếp nhiều, nhưng có những điều tôi khám phá rằng mình phải học từ các nhân vật trong sách này. Thí dụ, như tấm gương kiên trì học ngày đêm của Đào Mộng Nam và Phạm Xuân Hy, hay tấm lòng muốn vượt qua những ngăn trở bi thảm của đất nước như Khánh Trường, hay phải tập suy nghĩ cho sắc bén như Ngô Nhân Dụng để hiểu được vì sao ông bà mình ngày xưa không bị người Trung Hoa đồng hóa trong khi bị cai trị cả ngàn năm.

Chính trong tuyển tập này, tôi đã học được tấm lòng yêu nước thiết tha của Ngô Thế Vinh, người y sĩ tình nguyện gánh vác những gian nan chiến trường khi đất nước phân hóa, và khi hòa bình tới, cũng chính Ngô Thế Vinh đã đi nhiều tỉnh Miền Tây và đi dọc theo Sông Mekong để xem có cách nào ngăn được nạn đói và tai họa môi trường tương lai của Miền Tây. Cũng trong sách này tôi đã ngậm ngùi với một cái chết rực rỡ của họa sĩ Vị Ý, khi anh dựng một giá vẽ cao cho họa phẩm về giá trị của tự do và đã té ngã, và rồi chết đi trong niềm vui của một người sáng tạo nghệ thuật muốn vẽ lại cảm xúc được sống và sáng tác không bị bất kỳ chủ nghĩa nào ràng buộc. Đọc tới cái chết của họa sĩ Vị Ý, tôi nhớ tới cái chết của thi sĩ Đông Hồ, khi nhà thơ chết nơi giảng đường đại học Văn Khoa. Nhưng nhà thơ Đông Hồ đã làm được những gì muốn làm, còn họa sĩ Vị Ý chưa vẽ xong giấc mơ ngợi ca tự do.

Trong tuyển tập này tôi cũng được đọc những dòng chữ thơ mộng của Việt Dương khi kể lại lòng say mê học chữ Hán của Đào Mộng Nam và Phạm Xuân Hy. Nơi đó, ước mơ của Đào Mộng Nam được ghi lại, trích: “Trong khi chiến tranh tiếp diễn ngày một dữ dội trên khắp miền Nam, tôi hình dung Nam với bộ bà ba trắng, chân đi guốc mộc, đang nỗ lực thực hiện một cuộc vận động văn hóa về nguồn bằng chữ Nho, xây dựng thế chân vạc Nho-Nôm- Quốc ngữ ABC thành một nguồn văn tự dân tộc Việt mà không quốc gia nào có. Nhưng tôi sợ chiến tranh sẽ phá hủy, cắt đứt dòng vận động của họ Đào…” Đau đớn là, chiến tranh không phá hủy được dòng vận động của Đào Mộng Nam, mà chính nền hòa bình thống nhất đã cắt đứt những công trình thơ một như thế.

Tôi cũng kinh ngạc khi đọc về Lý Đại Nguyên, khi họ Lý chưa tới 20 đã đi vào kháng chiến chống Pháp nhưng vốn đọc sách về tư tưởng Đông phương và Tây phương, triết học, chính trị… để tổng hợp thành một tác phẩm cà ngàn trang in roneo từ năm 1964. Hãy nhớ rằng, thời đó chưa có máy tính, chưa có Internet. 

Trong tuyển tập này, trang nào cũng hay, cũng chứa đựng nhiều thông tin về các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lớn. Có những trang, khi đọc tới, lòng tôi bùi ngùi, có lúc như ứa nước mắt, khi đọc bài nhan đề “Từ bức ảnh của thầy Lê Mạnh Thát trong lễ tang thầy Tuệ Sỹ” của Việt Dương. Tác giả Việt Dương có cơ duyên là bạn học với Thầy Lê Mạnh Thát từ thơ ấu, “Tôi giao du với thầy Thát khi thầy còn là chú tiểu tu ở chùa Linh Sơn Đà Lạt từ năm 1964, gọi là chú Thát...” Thế rồi, khi tác giả Việt Dương bị bệnh ghẻ nguy kịch ở vùng kinh tế mới (đó là một thời cái gì cũng thiếu, đặc biệt là thiếu thuốc), thì chợt nhớ rằng nhà sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát tốt nghiệp Bác sĩ y khoa ở Hoa Kỳ, nên mới vào Sài Gòn để xin chữa bệnh ghẻ. Trong thời gian tạm trú trong căn phòng trống của Thầy Tuệ Sỹ, một hôm tác giả Việt Dương gặp Thầy Tuệ Sỹ khi Thầy về thăm Thầy Thát. Và hôm đó, trong một thời mà cả nước mình, ai cũng đói khốc liệt, thì Thầy Thát nấu mì gói, chia ra làm ba tô mì cho ba người ngồi ăn: Thầy Lê Mạnh Thát, Thầy Tuệ Sỹ và tác giả Việt Dương. Tôi nghĩ rằng, gặp một người đã là hy hữu rồi, huống gì là gặp cả hai nhà sư thiên tài này. Lại có cơ duyên được Thầy Thát chữa bệnh, cho tạm trú, rồi một hôm Thầy Thát nấu mì gói, chia làm ba tô mì cho ngồi chung bàn ăn với hai nhà sư thiên tài kỳ vĩ. Cơ duyênc ủa tác giả Việt Dương rất mực hy hữu. Có ai trên đời này khi bệnh ghẻ cùng mình lại được đích thân nhà sư Lê Mạnh Thát chữa bệnh, rồi cũng có ai trên đời này trong khi chữa bệnh được Thầy Thát cho vào phòng của Thầy Tuệ Sỹ năm dưỡng bệnh một thời gian, rồi vài hôm sau, khi Thầy Tuệ Sỹ từ Già Lam tới thăm Thầy Thát, thử hỏi có ai trên đời này được Thầy Thát đích thân nấu mì và chia làm 3 tô mì để mời Việt Dương ngồi chung bàn với hai nhà sư thiên tài này.

Tôi xin phép ghi lại mấy đoạn này của tác giả Việt Dương nơi đây:

Đầu năm 1981, tôi được thả từ trại tù cải tạo Suối Máu, Biên Hòa, về khu kinh tế mới Gia Ray, Long Khánh. Làm rẫy được nửa mùa, khi bắp bắt đầu kết trái thì tôi bị bệnh ghẻ lở toàn thân. ..

...Sau khi coi mấy con ghẻ trên chân tay tôi, thầy bảo: Bệnh ghẻ này dễ chữa, thuốc cũng dễ chế tạo, nhưng y tế của họ đã không làm gì, cứ để dân khốn quẫn vì mấy thứ ghẻ. Loại ghẻ này là do một thứ nấm ở những vùng mới khai hoang. Nó vật mình vì mình thiếu dinh dưỡng. Thầy bảo tôi đi tắm, rồi lấy một chai thuốc dầu (tên đầu là Benzen còn chữ sau tôi không nhớ) bôi khắp thân, từ cổ đến chân. Thầy bảo tôi không đụng vào nước trong 48 giờ. Đêm ấy tôi có cảm tưởng là mình đã gặp thuốc tiên. Thân hết ngứa, hết đau và ngủ một giấc ngon lành tới sáng. Ngày hôm sau cho thầy biết kết quả, thầy bảo là đã mua được chai thuốc của một bà bán đồ linh tinh trên hè phố và đã chữa cho nhiều người, nay chỉ còn chừng 1/4. Sự hiệu nghiệm của thuốc thật kỳ diệu. Chỉ 2, 3 ngày thì những con ghẻ khô đầu và một tuần sau tróc vẩy, chỉ để lại trên thân tôi những vết tròn nâu thẫm.

Sau khi hết bệnh, thầy bảo tôi ở lại Sài Gòn, chớ về kinh tế mới sẽ vướng lại và thầy dẫn tôi xuống một căn phòng rộng, tầng dưới của một ngôi nhà hai tầng trong sân phía bên trái Viện Phật Học.Thầy bảo đây là phòng của thầy Tuệ Sỹ, nhưng bây giờ thầy ở chùa Già Lam, nên tôi có thể ở tạm.

Cái tên Tuệ Sỹ tôi đã biết từ những năm đầu thập niên 1970, vì đọc sách của ông, đọc tạp chí Tư Tưởng, cơ quan ngôn luận của Đại Học Vạn Hạnh do ông làm chủ bút. Một buổi tối khoảng 9, 10 giờ, thầy Thát xuống gọi tôi lên thư viện. Bước qua cửa thư viện, tôi thấy một nhà sư gầy trong tấm áo nâu bạc màu. Thầy Thát chỉ nhà sư nói: Thầy Tuệ Sỹ. Tôi cúi chào. Thầy Tuệ Sỹ đưa tay kéo tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Thấy thầy Thát đi tới cái xoong trên bếp điện, múc ra 3 tô mì, tôi đứng dậy tới bưng 2 tô đem tới bàn. Trong khi ăn mì, tôi nói với thầy Tuệ Sỹ là đã đọc thầy, nay nhờ thầy Thát mới có duyên gặp thầy. Nghe tôi nói, thầy chỉ cười, nét cười tươi, đượm tình thân như đã quen biết từ lâu. Thầy hỏi tôi vài điều về đời sống trong tù cải tạo. Tôi đáp: Ở trong tù thì đói và bị hạ nhục. Ra khỏi nhà tù về kinh tế mới thì mỗi tuần phải lên trình diện công an xã. Lên Sài Gòn chữa bệnh cũng phải tới xin họ. Các thầy tôi không biết sao, chớ những người tù cải tạo như chúng tôi thì biết là đã bị họ đẩy ra ngoài lề xã hội.

Thầy nói: Chúng tôi cũng thế thôi. Cả nước đã trở thành một nhà tù thì số phận mỗi người do cai tù định đoạt. Thấy thầy trầm ngâm yên lặng, tôi đứng dậy cầm 3 cái tô và cái xoong ra sân rửa, rồi đi về phòng.

Hai nhà sư trẻ có những nét dáng khác nhau. Thầy Trí Siêu có dáng một thư sinh nho nhã, da trắng môi đỏ tươi, trán rộng với khuôn mặt sáng hiền. Còn thầy Tuệ Sỹ, nhìn ông tôi chỉ thấy đôi mắt sáng sâu thẳm và cái đầu với những nét lạ khó nói, gây nhiều ấn tượng. Thoạt nhìn ông tôi liên tưởng đến bộ mặt của Đạt Ma Sư Tổ. Qua thầy Trí Siêu, tôi biết thầy Tuệ Sỹ đã được Hòa Thượng Trí Thủ bảo lãnh ra khỏi tù về Già Lam để cùng thầy Trí Siêu biên soạn bộ Đại Tự Điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam. Và đêm đêm hai thầy đã miệt mài biên soạn tự điển ở thư viện Vạn Hạnh. Đêm nay tôi được chia một phần mì gói ăn đêm của hai thầy.” (“Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ.” Trang 105-107)

Tôi ưa thích những hình ảnh đó đặc biệt. Tôi luôn luôn nghĩ rằng, may mắn cho dân tộc đã có hai nhà sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ. Và khi đọc xong tuyển tập “Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ” và hiểu thêm từng người một, tôi đã nghĩ rằng, may mắn cho dân tộc đã có những người trong sách này. Tất cả họ đều là những mảng của hồn thiêng sông núi. Và bây giờ, hai nhà văn Việt Dương và Trần Thị Nguyệt Mai đã viết về cuộc đời và tác phẩm của họ. Cuốn sách này cần có trong mọi gia đình người Việt, để chúng ta hiểu thêm về nền văn hóa Việt. Xin trân trọng cảm ơn hai tác giả.

PHAN TẤN HẢI
2O.7.2024


“Chân Dung Ngày Đó Bây Giờ”
Tác giả: Việt Dương / Trần Thị Nguyệt Mai
Thể loại: Bút ký; Sách dày: 388 trang.
Sách đen trắng, bìa mềm: $25.
Sách màu, bìa mềm: $30
 
Hoặc liên lạc:
* Tác giả: Ông Việt Dương - email: tienyen41@gmail.com
* Nhà xuất bản: Ông Lê Hân: (408) 722-5626 han.le3359@gmail.com

3500. NGUYỄN MINH NỮU Viết bên dòng Potomac.

Sông Potomac - Photo courtesy of © Jonathan Larsen/Shutterstock.com

Định cư tại Mỹ năm 1995. Ở tuổi 45, tôi có 5 năm thơ dại sinh trưởng tại Hà Nội, có 20 năm đi học, đi lính và sống với Việt Nam Cộng Hòa, sau 1975 có 20 năm lăn lộn kiếm sống với Việt Nam Cộng Sản, tôi còn bao nhiêu năm để sống với đất nước tự do Hoa kỳ nữa đây? Đến Mỹ ở lứa tuổi quá lứa cho đi học, những đam mê đọc và viết từ thời thanh niên đã tự dấu mình suốt mấy chục năm, một gia đình nhỏ với những đứa con chưa đến tuổi trưởng thành, mọi điều tạm gác lại cho tương lai của lứa đời sau.

Khi định cư tại Hoa Kỳ, niềm mơ ước đầu tiên và lớn nhất của mình là được cầm bút trở lại. Không thể sống toàn thời gian bằng ngòi bút như khao khát, nên tôi tìm kiếm việc làm từ ngành báo chí. Trong vùng, đang có nhiều tờ tuần báo phát hành. Tất cả các tờ báo này đều là tập hợp của các bản tin thời sự, bình luận chính trị và quảng cáo. Trong đó, có 4 tờ báo mạnh, mạnh nghĩa là có nhiều quảng cáo, tờ báo dày và có một phong cách riêng như nhắm vào một thành phần độc giả thí dụ về phụ nữ, về chính trị, về xã hội và về một ngành nghề như nail. Nhưng văn chương hoàn toàn vắng bóng trong các tờ báo này. Bước khởi đầu là tôi gọi điện đến xin việc và bị từ chối vì đã đủ người. Sau đó, thấy một quảng cáo cần người đánh máy tiếng Việt, tôi gọi điện đến xin việc và được gọi tới phỏng vấn.

Người tôi gặp là Lê Khiêm. Khiêm còn trẻ, đang là người cung cấp các bản tin cho các báo Việt Ngữ trong vùng.  Sau năm 1975, hiệu trưởng trường trung học Văn Học tại Đà Lạt cũ là Chữ Bá Anh định cư tại vùng Hoa Thịnh Đốn. Ông hình thành một cơ quan thông tấn, chuyên nghiên cứu và dịch thuật các bản tin quốc tế liên quan đến Việt Nam từ các hãng thông tấn Mỹ, các tư liệu văn học cũ và các sinh hoạt người Việt khắp nơi trên thế giới, đúc kết thành một bản tin mỗi ngày, cung cấp cho những người có nhu cầu đặt mua, và các tờ báo Việt Ngữ làm tư liệu. Khi ông Chữ Bá Anh từ trần, người cộng tác với ông là Lê Khiêm tiếp nối công việc đó.

Lê Khiêm còn trẻ, năng động và nồng nhiệt. Khiêm hỏi tôi có biết đánh chữ tiếng Việt không? Tôi gật đầu. Khiêm đưa tôi một một xấp giấy viết tay, và chỉ cho tôi một cái computer bỏ trống để làm việc thử. Khoảng hai giờ sau, Khiêm ghé lại nhìn qua những gì tôi đã làm, và mời tôi vào phòng riêng trò chuyện. Khiêm hỏi, thực sự anh muốn gì? Bởi vì nếu anh đến xin việc đánh máy thì em nghĩ là anh không sông được, Tiền lương lao động đơn giản hiện nay thấp nhất là 4,25 đồng một giờ, còn ở đây, em trả tiền theo số trang đánh máy, giá mỗi trang là 1,50 đồng, anh đánh máy suốt hai giờ và chỉ được có 3 trang. Cho nên em cho rằng anh muốn một cái gì khác chứ không phải muốn đánh máy chữ kiếm tiền.

Tôi nói tôi vừa định cư tại Mỹ hơn một năm. Trước 75 tôi cầm bút viết văn, có làm việc cho một vài tờ nhật báo ở Saigon, tôi yêu thích làm truyền thông vì phù hợp với khả năng của mình. Tôi nghĩ tôi có thể đọc, có thể viết và có thể trở lại được cái hào hứng sáng tác tôi có. Nhưng không tìm được công việc từ các tờ báo hiện tại ở đây, và tôi tưởng  hãng tin này sẽ có một công việc cho mình.

Lê Khiêm vui vẻ, cái công việc ngày xưa anh làm là viết báo chứ không phải làm báo, rất gần gũi với việc biên tập và thực hiện một tờ báo chứ không phải là cặm cụi đánh máy ăn tiền. Anh thực sự có muốn tự thực hiện một tờ báo trong vùng này?

- Sao làm được khi mới qua Mỹ, tiền không có và vốn liếng Anh ngữ chưa đầy lá mít.

- Không phải đâu, tiền để thực hiện một tờ báo không nhiều và có thể xoay sở được, Anh ngữ rất cần nếu đi vào thị trường Hoa Kỳ, làm báo tiếng Việt lại không quan trọng mấy, anh đang có một thứ mà nhiều người làm báo ở đây không có, đó là Đọc, đó là Nhận Định, đó là Phân Tích và Tổng Hợp. Nếu anh muốn, em có thể giúp anh.

- Bằng cách nào?

- Em sẽ chỉ cho anh cách trình bày một tờ báo, cách nuôi sống tờ báo, địa điểm in ấn, cách phát hành và cung cấp cho anh bài vở tin tức, nghĩa là trọn bộ để có một tờ tuần báo, còn có tìm được quảng cáo hay không là do khả năng giao tiếp của anh, tờ báo có độc giả hay không là do nội dung anh chọn lựa và đưa vào.

Bài toán đầu tiên là với kích thước khổ giấy tabloid, in 2 mầu, số lượng 2.000 bản, giá phải trả cho nhà in là 450 đồng. Bản tin thì thay vì phải mua 7 bản tin cho một tuần để chọn lựa, mỗi bản tin 50 đồng thì Lê Khiêm nói em sẽ tính anh mỗi tuần 50 đồng thôi, Giá quảng cáo một trang là 50 đồng. Nghĩa là nếu lấy được 20 trang quảng cáo, còn 20 trang đi bài vở thì mỗi tuần sẽ có được số tiền cho công chọn bài vở, layout trình bày, phát hành báo tới các địa điểm kinh doanh. Nhưng quan trọng và thú vị là được làm công việc phù hợp với năng lực của mình và niềm mơ ước của mình.

Bản tin mà Lê Khiêm thực hiện là sự nối tiếp công việc dang dở của giáo sư Chữ Bá Anh sau khi ông từ trần. Công việc của Chữ Bá Anh là một bản sao của Thông Tấn Xã Việt Nam trước năm 1975. TTXVN là cơ quan của Bộ Thông Tin Việt Nam Cộng Hòa, có tổng biên tập, và đội ngũ hùng hậu các phóng viên thời sự, phóng viên chiến trường, quan sát viên chính trị, dịch giả nhiều ngôn ngữ, hàng ngày có khi phát hành một tới hai, ba bản tin tổng hợp chính trị, kinh tế, thời sự trong và ngoài nước. Ngoài việc gửi tới các báo chí, phát thanh, truyền hình những tin đáng chú ý trong và ngoài nước, còn là cách hướng dẫn dư luận theo một đường lối chính trị. Cái cần nhấn mạnh là, hướng dẫn dư luận, chứ không phải chỉ đạo truyền thông như sau này chúng ta thấy ở trong nước sau 1975.

Thực hiện một tờ báo ở Vùng Hoa Thịnh Đốn, khác với thực hiện một tờ báo ở California, và tất nhiên là khác hơn rất nhiều việc thực hiện một tờ báo ở Việt nam hồi trước 75. Khác như thế nào?

Báo chí ở Việt nam trước, có tòa soạn với Chủ Nhiệm lo đối ngoại, một Chủ Bút hay Tổng Thư Ký lo viết bài, đọc và chọn lựa bài của các bản tin và của các phóng viên gửi về. Có nhiều phóng viên thu thập tin tức, viết phóng sự xã hội, chiến trường, chính trị, thời sự, cộng với những mục thường xuyên mang tính biệt dị của từng tờ báo.

Báo chí Việt Ngữ ở California phát triển từ khoảng năm 1976 với một vài tờ tuần báo với những tin tức thu lượm từ báo chí Hoa Kỳ, những bài vở văn thơ đa số ghi nhớ lại trước 1975, và một số tin tức cộng đồng người Việt. Sau đó càng lúc càng phát triển mạnh mẽ, khoảng thời gian khi tôi làm báo, thì ở California đã có trên 50 tuần báo, ba tờ nhật báo là Người Việt, Viễn Đông, Việt Báo, có tới ba hãng thông tấn thực hiện bản tin hàng ngày và ít nhất là khoảng 5 website tiếng Việt được phổ biến và theo dõi. Báo ở Cali cạnh tranh rất nhiều, dù không thể như Việt nam xưa, nhưng mỗi tờ báo cũng có ít nhất vài phóng viên viết phóng sự về người Việt, và căn bản là có một ban biên tập có thực lực viết bài bình luận thời sự, sáng tác thơ văn và chọn lựa bài vở tin tức giữa trùng trùng lớp lớp những bài trên các bản tin và trên mạng.

Còn làm báo tại Hoa Thịnh Đốn lại khác hơn nữa. Mỗi tờ báo chỉ có một người biên tập, viết bài và nhiều lắm là một nhân viên làm về layout.

Làm tờ báo như thế, nghe có vẻ dễ dàng, nhưng không phải vậy.

Về tin tức, ngoài những bản tin mua có trả tiền để xử dụng chính thức, còn có những tin tức tiếng Việt trên các đài VOA, BBC, RFI và các website tiếng Việt và người biên tập phải đọc tất cả để cân nhắc tin nào thật, tin nào giả, tin nào phù hợp với lập trường tờ báo; về các bài viết, cũng phải tìm đọc mênh mông các bài bình luận, tham luận, nhận định, và sáng tác văn học, để chọn ra đăng trên báo của mình trùng với những điều mình ủng hộ.

 

Một kỷ niệm sẽ không quên được về làm báo. Đó là thời điểm chuẩn bị để xuất bản. Một số bạn bè trong vùng chân tình khuyên nhủ là suy nghĩ lại. Làm báo là con đường dễ chết, vì thiếu bài, vì thiếu người, vì không đủ tài chính nuôi tờ báo và còn vì sự đánh phá từ nhiều phía như bạn cùng nghề, các thế lực chính trị không cùng quan điểm, vì... và vì... Sau đó, một buổi gặp gỡ với bạn bè, tất cả các câu hỏi về năng lực, về ý tưởng, lòng kỳ vọng, mọi người đều khuyên nên nghĩ lại. Khi quay về nhà, một mình trong đêm vắng, trằn trọc suy nghĩ và quyết định. Tự nhiên chợt nhớ đến một trận đánh trong truyện Tây Hán Chí. Trận đánh giữa quân của Tây Sở Bá Vương Hạng Võ và Phá Sở Nguyên Nhung Hàn Tín.

Trận đánh quyết liệt đó, Hàn Tín lập một trận thế kỳ lạ ngược hoàn toàn với các binh pháp cổ xưa, đó là đằng sau thế trận là một bờ sông lớn, nghĩa là tạo cho quân sĩ một tâm thế chỉ có một đường là đánh chứ không có đường lui.  Tự xét về hoàn cảnh thực tế của mình, và nóng bỏng khao khát muốn được sống và làm việc bằng khả năng mà mình còn có được giữa xứ người, tôi bật dậy, dùng bút đen nét lớn viết trên bức tường ngay trước mặt bàn làm việc của mình ba chữ thật lớn: BỐI THỦY TRẬN. Vâng, đó là một trận thế mà sau lưng không có đường rút chạy.

Hơn hai mươi năm sau ngày 30/4, cộng đồng người Việt ở Mỹ đã hình thành 4 khu vực đông đảo là (1) California, (2) Texas, (3) Washington State và (4) khu vực vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Đây là khu dân cư gồm Maryland phía bắc, Virginia phía nam, bao bọc thủ đô Washington DC ở giữa. Cả bốn khu vực đã có rất nhiều sinh hoạt về văn hóa, nhiều người cầm bút trước 75 đã bình tâm nhìn lại và viết lại, cùng với nhiều người mới hơn tham gia thực hiện các tạp chí mạng, tạp chí giấy.  Các tạp chí văn chương như Văn do Mai Thảo thực hiện, rồi Nguyễn Xuân Hoàng tiếp nối, Hợp Lưu  với Khánh Trường, Văn Học với Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Trịnh Y Thư, Thế Kỷ 21 với Lê Đình Điểu, Đỗ Quý Toàn và những bài tham luận chính trị trên nhật báo Người Việt của Ngô Nhân Dụng, Vũ Ánh, Cao Thế Dung, là những tư liệu quý hiếm mà các tờ báo địa phương sưu tầm phổ biến lại trong quan niệm về chính trị và nhân bản.

Chọn lựa tờ báo sẽ đi theo hướng bài vở như thế nào, và tờ báo phải có những đặc điểm riêng nào và để cho độc giả cũng như các đơn vị kinh doanh nhìn thấy được cái khác biệt với những tờ báo có sẵn.

Một tờ báo về văn chương nghệ thuật? Hay một tờ báo về thương mại dịch vụ? Cái cân nhắc chọn lựa chính là thiên hướng về phía nào. Hướng đi tôi chọn lựa là một phương tiện kiếm sống bằng báo thương mại, nhưng nghiêng bài vở về Nhân Văn và Văn Học Nghệ Thuật để gửi tới một phần trong đám đông độc giả còn tha thiết khoảng trống này. Văn Học Nghệ Thuật không phải điều giải trí, mà là hành trang để tới nhân bản nhân văn.

Tôi chọn tên là Tuần Báo Văn Nghệ, khi chưa có khả năng làm về văn học, thì hãy làm văn nghệ trước đã. Tờ báo sẽ có 4 chuyên mục mỗi tuần thật riêng tư mới lạ với báo chí trong vùng. Thứ nhất là bài viết ở trang 3, đặt tên là Tản Mạn Đời Thường do Chủ Nhiệm viết mỗi tuần, nói về đủ thứ nghe thấy, nhìn thấy, nghĩ về... trong tuần đó, là một lời tâm sự nho nhỏ. Có lẽ đây là mục mà tôi trân quý nhất, vì đó chính là nơi nói được cái ước ao khi làm tờ báo ở vùng Hoa Thịnh Đốn. Ý tường này không phải do tôi sáng tạo ra, mà là một bản sao từ trước 1975 của nhật báo Tiền Tuyến. Đó là mục Tạp Ghi do ký giả Lô Răng tức nhà văn Phan Lạc Phúc thực hiện hàng ngày trên trang 2 tờ báo. Mục Tạp Ghi này thực phong phú những đề tài nói tới bao gồm văn học, nghệ thuật, chính trị, quân sự, xã hội, được nhìn qua ngòi viết đa tài và sâu sắc của Lô Răng, sau đó còn có nhiều người tham gia như Thanh Tâm Tuyền, Trần Hoài Thư. Tản Mạn Đời Thường là một cách thực hiện như thế, nhẹ nhàng hơn và gần gũi hơn với độc giả miền Đông Hoa Kỳ, bởi người viết đang thực hiện điều mà tôi khao khát là tôi đang ở đây và tôi nghĩ điều gì.

Mục thứ hai là Một Bông Hồng Trong Đời Sống, sưu tầm những tiểu truyện khoảng một trang về tình người, tình bạn, tình cha, tình mẹ, tình thầy trò, tình chiến hữu, đa số sưu tầm từ loạt bài Chicken Soup, Học làm Người, Quà Tặng Cuộc Sống. Những bài viết đã gây xúc động sâu sắc trên toàn thế giới, và thật hữu ích cho những người có dịp đọc được.

Mục thứ ba Thế Giới Nghệ Sĩ, mua lại tác quyền của nhạc sĩ Trường Kỳ, đăng tải hàng tuần về tiểu sử và quá trình của các tài năng trong âm nhạc. Và mục thứ tư là Lang Thang Trên Web, sưu tầm từ khắp nơi các tin rất ngắn, các điều mới lạ vừa phát hiện ra trên khắp thế giới về thiên văn, địa lý, khoa học, đặc biệt lồng vào hành trạng và tác phẩm các tác giả văn học.

Những mục thường xuyên đó là câu chuyện văn học tản mạn mỗi tuần, là cung cấp các bài học nhân bản cho các bậc cha mẹ dạy dỗ con cái, là nhắc nhớ những tiếng hát, ca khúc đi theo ta suốt nửa đời người, và sau chót là phổ biến tổng hợp những kiến thức mới nhất bằng các bản tin ngắn gọn. Nội dung đó, thật vui vì đáp thỏa được nhu cầu của rất nhiều gia đình người Việt trong vùng, họ đến các cơ sở kinh doanh tìm xin báo Văn Nghệ, và kích động các cơ sở đó đăng thông tin kinh doanh trên tờ tuần báo họ yêu thích. Tôi tin rằng chính nội dung riêng biệt mà tờ báo chọn lựa đã tạo sức sống cho tờ báo suốt bao nhiêu năm. 

Bài viết ngắn này, xin gửi tới ba người đã cho phép Văn Nghệ thường xuyên được xử dụng bài vở trên Văn Nghệ là ký-mục-gia Bùi Bảo Trúc với loạt bài Thư Gửi Bạn Ta, nhà văn Tưởng Năng Tiến với loạt bài Sổ Tay Thường Dân và bình luận gia chính trị Đại Dương. Với tôi, và cho đến bây giờ, vẫn cho rằng đó là những loạt bài rất thời sự, rất văn chương và sắc sảo nhất về những đề tài mà họ nhắc đến.

Tuần báo Văn Nghệ phát hành được 18 năm, từ 1997 đến 2014. Đình bản tháng 8 năm 2014 vì nhiều lý do, thứ nhất kinh tế lúc đó trì trệ sau bùng vỡ quả bóng địa ốc, các cơ sở kinh doanh người Việt đóng cửa, hoặc có mở cửa cầm chừng cũng thu gọn quảng cáo, tờ báo không còn đủ chi phí in ấn, thứ hai, lớp độc giả ngày xưa mỗi cuối tuần lái xe ra các trung tâm thương mại xin báo về đọc càng lúc càng hiếm hoi vì tuổi già, vì mắt yếu và đôi khi đã mãn phần. Lớp trẻ hơn tìm đọc tin tức bài vở trên hệ thống internet nhanh hơn, đa dạng hơn và dễ dàng hơn. Và ngay người chủ trương cũng ý thức được tuổi già đã tới, khoảng đời còn lại không nhiều, muốn dành thời gian cho những tâm nguyện khác, mà thời gian làm báo bận rộn cho kinh doanh đã không thực hiện được mơ ước của mình.

Dù đóng góp nhiều hay ít, dù thành công hay thất bại, cũng đã là kỷ niệm, Dù sao thì cũng đã một thời.

Dec 28/2021