Hồ Đình Nghiêm
ĐẤT HOÀNG THỔ
![]()
Làm thơ đã lâu, tháng năm tôi còn ngồi
ghế nhà trường chưa xong bậc trung học. Tập thơ đầu của anh xuất bản vào năm
1972.
Quê nhà Tuy Hòa và “Đời Như Một Khúc
Nhạc Buồn” đã trỗi lên, mang anh phiêu bồng sang tới vùng Virginia xa khuất.
Địa phận này tôi tự đặt tên riêng: Vùng đất kỷ niệm.
Ngày cũ nhỏ nhít, tôi đi không nhiều.
Huế, Đà Nẵng, Tuy Hòa, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn. Để lại sau lưng sáu (6)
thành phố yêu kiều mệnh bạc ấy, nên giờ đây muốn ôn lại hình bóng cũ, hồi tưởng
thời vàng son đã vuột mất thì có một nơi không đâu mang đủ lực đẩy cho bằng
khu vực Virginia, chốn chập chùng cây xanh bóng mát có gia đình anh chị tôi đến
định cư.
Thời làm học trò vụng dại ở Tuy Hòa, ở Đà Lạt, tôi chưa có duyên gặp anh, hai nơi mà anh nào khác gì là thổ địa. Đợi lớn lên, tuy còn vụng dại để bước vào con đường thơ văn anh từng dẫm chân, bấy giờ tôi mới được gặp, được bắt tay người mang tên Phạm Cao Hoàng ở Virginia một hôm trời buồn trời trở rét trời xám ngoét trời xúi lạnh lòng. Nếu có chút gì chợt dấy lên, gây nhiệt làm ấm thì e rằng đó là tôi kịp hay ra, trong muộn màng, Phạm Cao Hoàng là một nhà thơ.
Hiền lành, điềm đạm, ít nói, giọng trầm
ấm, chữ viết đẹp, và lạ lùng thay trong các buổi quây quần cùng bè bạn sinh
hoạt trong lãnh vực văn học khác vùng miền vừa hội tụ, tôi vẫn luôn an tâm ngồi
kề bên một người có vóc vạc khá lớn con ấy. Tôi thực sự bất bình nếu có ai mượn
cổ thi ra để bảo “gần trong gang tấc mà xa nghìn trùng”. Ngồi với nhà thơ Phạm
Cao Hoàng tôi nghiệm thấy ở gang tấc này sẽ mãi là một vai đâu vai, như Tuy
Hòa vốn giao duyên cùng Đà Lạt mà nghìn trùng, nếu có, chỉ là khoảng cách do
địa lý mang lại thôi. Montréal và Virginia với tôi muôn năm là gang tấc, bởi
nếu xa xôi bạn chẳng tài nào đón nhận được những hơi ấm lây lan dồn qua, gửi
sang.
Tôi ao ước được hóa thân làm hương
mùi cà phê lẩn trốn trong thơ anh:
“Cám ơn những sáng êm đềm
khói cà phê quyện bên hiên nhà mình”.
Có người từng nói (và tôi đặt lòng
tin vào): Làm thơ chỉ để gửi cho đời chút hương!
Tuần rồi, qua bưu điện, tôi nhận được
món quà bất ngờ, thi tập “ĐẤT còn thơm mãi mùi hương” của tác giả Phạm Cao
Hoàng ký tặng, 112 trang chứa đựng 41 bài thơ viết sau 1975. Đặc biệt đây là
lần in thứ ba, tháng 9, 2018 do Thư Ấn Quán đảm trách in trên giấy đặc biệt
linen business paper được Thiên Kim trình bày đẹp mắt. Phụ bản gồm tranh của
Đinh Cường, Trương Vũ, Nguyễn Trọng Khôi, Đinh Trường Chinh và những ảnh chụp
phong cảnh của chính tác giả. Phụ lục gồm hai bài viết của Nguyễn Xuân Thiệp
và Phạm Văn Nhàn.
Ở đoạn trên, tôi có e dè đưa ra chút
lượng định sơ khởi về nhà thơ Phạm Cao Hoàng ở phút đầu gặp nhau: Điềm đạm,
hiền lành, ít nói… Bây giờ tôi cực lòng hỏi bạn đúng, sai về một ý tưởng cổ
xưa: “Văn là người”. Tôi từng ngờ vực tới thứ nhận định này bởi tôi không
thích những áp đặt nhằm vơ đũa cả nắm, cũng tùy thuộc vào từng sự cá biệt của
mỗi tác giả. Nhưng đã từng bắt chuyện cùng anh Phạm Cao Hoàng, được đọc thơ
anh làm, những gì điềm đạm, từ tốn, hiền lành, thân cận, trao nỗi bình an cho
người đối diện, tôi bắt gặp đã không có mấy sai biệt giữa con người và tác phẩm.
Thi tập mang tên “ĐẤT còn thơm mãi mùi hương”, chữ ĐẤT in hoa, dùng co chữ to
và điều này trao cho riêng tôi một cảm nhận: Thơ anh cũng như con người tác
giả đều hiền hòa như một hòn đất. Nghĩ là dài dòng, chứ ban đầu tôi định dùng
tựa đề là “ Đất cũng như người, đọng mãi mùi hương”.
Không riêng tôi, họa sĩ Đinh Cường
lúc còn tại thế, vẫn luôn dành cảm tình đến nhà thơ bằng vào nhận xét:
“Nơi đây tôi gặp người bạn luôn đội
mũ
Nét mặt đăm chiêu mà tốt vô cùng Có lẽ cũng từ một miền quê êm đềm lắm Nuôi con người luôn sống bao dung”. ![]()
Phác thảo chân dung Phạm Cao Hoàng - Đinh Cường, Virginia, 2010
“Miền quê êm đềm lắm” nằm đầy, chất
ngất trong thơ của Phạm Cao Hoàng, bởi trước tiên và sau cùng tác giả vốn nặng
lòng với quê nhà, với ruộng vườn mà cha ông từng ươm trồng hoa lành quả ngọt.
Tôi thích bài SCIBILIA, Ngày Cuối Thu quá lắm:
“Scibilia, ngày cuối thu
tôi đuổi theo những đám sương mù và khi quay lại tôi nhìn thấy một giọt sương buồn trong mắt em
giọt sương đọng suốt mười lăm năm
long lanh từ thuở xa quê mình và em nói rằng em rất nhớ những bước chân về – đêm cao nguyên
giọt sương đọng suốt mười lăm năm
từ khi mình bỏ núi xa rừng và em nói rằng em rất nhớ một chút mây trời Langbiang
giọt sương đọng suốt mười lăm năm
ừ, khóc đi em cho đỡ buồn quê hương còn đó nhưng xa lắm và biết ngày về kịp nữa không”.
Tôi ngồi yên để tập hít thở, để cho
giọt sương thôi làm mờ nhãn quang. Tôi dụi mắt và tôi thử đọc bài Sau Chiến
Tranh Trở Lại Tuy Hòa làm vào năm 1976 in ở trang 14 để thấy “nét đăm chiêu”
của “người luôn sống bao dung”:
“khi về thăm lại cố hương
thấy quê nhà nghĩ càng thương quê nhà hắt hiu một bóng mẹ già một ngôi mộ cỏ xanh và khổ đau bâng khuâng một chút vườn sau ngậm ngùi ngõ trước lao xao nắng vàng đã qua chưa cuộc điêu tàn đám mây năm cũ biết tan nơi nào”.
Một nỗi buồn lặng không hơn không
kém, bao dung là bởi vậy, lời thơ chỉ thế một tiếng thở dài, kỳ dư chẳng oán
trách hoặc ẩn chứa sự hằn học nào cả. Lành hơn cả một hòn đất chịu cày xới
tơi bời sau chiến tranh. Bi quan thường không mấy khi nẩy mầm trên cuộc đất ấy,
đọc thơ Phạm Cao Hoàng là tìm về, mong ngóng bắt gặp nỗi bình an. Bình an ở
khung cảnh anh nhẹ nhàng đưa ra, bình an luôn cả chữ dùng dung dị. Nói theo
thuật ngữ của Leonardo da Vinci: “Đơn giản là thứ rất mực cầu kỳ”. Phạm Cao
Hoang lại dụng tâm tránh xa cầu kỳ, anh thích đơn giản và bất ngờ đất đã làm
thơm một nụ hoa chợt bung nở. Viết về tình yêu cũng thế, trong ngần chẳng cần
phải cường điệu hóa trang như bao nhà thơ khác. Anh thích làm giòng suối chưa
từng ô nhiễm hơn là một lao thân của sông hồ lắm phèn chua nước mặn, thử dọn
lòng đọc đôi câu bình dị, chân thật một tỏ bày chẳng vẩn đục:
“mười năm và mười mùa đông
trong hơi thở có hương nồng em trao có tình em rất ngọt ngào trong veo như giọt sương đèo Prenn nồng nàn như đêm Lâm Viên như Đà Lạt với lời nguyền năm xưa”.
Đà Lạt. Ôi chao một trời thương nhớ vừa
xao động. Có phải tôi cảm thơ Phạm Cao Hoàng do bởi từng “đắp chung chăn” giữa
một trời cao nguyên lắm huyễn mộng? Không, nhà thơ luôn sáng suốt đối mặt với
sự thật, nếu có chăn thì bị lấy đi, buộc tỉnh thức:
“còn chăng là hai bàn tay
đã chai sạm với tháng ngày gian nan còn chăng là mây lang thang trên đồi gió hú bạt ngàn rừng thông còn chăng là đêm mênh mông người ngồi nhớ một dòng sông cạn rồi”.
Đây chỉ là trích đoạn của bài thơ
mang tên Người Thi Sĩ Ấy Không Còn Làm Thơ viết ở Đà Lạt năm 1985 in ở hai
trang 16 và 17 mà tôi cả gan bỏ mất đoạn giữa. Bạn đọc có yêu ĐẤT còn thơm
mãi mùi hương, khi cầm tập thơ trên tay sẽ đọc đủ đầy tâm cảm của nhà thơ
(tôi sử dụng nghệ thuật úp mở để chào hàng chăng?).
Tôi yêu bài Mây Trắng mà nhà thơ Phạm
Cao Hoàng dành “tặng anh Trần Huiền Ân” in ở trang 29:
“ngày đi về phía mặt trời
tôi nghe tiếng gọi của người năm xưa và nghe tiếng mẹ ầu ơ bên dòng sông với đôi bờ quạnh hiu xóm thôn một thuở tiêu điều gian nan cùng với cuộc phiêu lãng này ngày về trắng hai bàn tay người về ôm lấy cụm mây trắng buồn khói ngày xưa ấy còn vương sương còn đọng lại bên dòng cổ thi ngày về nhớ lúc ra đi biển gào lên khúc biệt ly sao đành vậy mà… biền biệt bao năm”.
Thơ làm ở Virginia năm 2009 mà dòng
in chữ nghiêng là Bài Hát Ngày Về, thơ của Trần Huiền Ân.
Hơi cổ điển, bạn có thấy vậy không?
Tôi vẫn nghĩ, nếu bạn muốn thử nghiệm làm mới thi ca, ít nhất bạn sẽ gặp phải
hai vấn nạn: Thứ nhất bạn mất đi sự thành thật có trong cảm xúc ban đầu, mặt
khác bạn dẫn người đọc đến một quang cảnh khác lạ buộc người ta phải tìm cách
thích nghi. Và tôi cho, do lẽ đó lời thơ bạn chuyển tải khó đậu lại, luyến
lưu dài hơi trong tâm cảm người đọc. Cô lại trong ý tôi muốn nói, một bài thơ
hay là bài thơ ấy như giọt mực khó phai đọng giữa lòng trang giấy trắng, giản
đơn là thế, nôm na là thế, qua thời gian, giọt mực đó có mờ phai nhưng không
thể biến mất được.
Tôi cũng mọc lên sự so sánh, rằng khi
được đối mặt với hai giai nhân, tôi chan đầy cảm tình trước một dung nhan
không son phấn hơn là một vẻ đẹp được bồi đắp qua nhiều mỹ phẩm. Một khuôn mặt
mộc khiến tôi cảm động. Bạn có thể không đồng ý với mỹ quan thô thiển của
tôi, đành vậy. Tôi yêu da thịt thuần khiết, nguyên trạng thay vì phải hôn lấy
một giọt tinh dầu dẫu mắc tiền đã ngụy trang, xức lên cơ thể người bạn khác
phái. Bạn lại nhăn mặt? Bạn nghĩ mùi đất nồng có thơm không? Hãy thử đọc lấy
thơ của Phạm Cao Hoàng rồi hãy phê phán tôi sau, nhé.
Nhà thơ Phạm Cao Hoàng có mở trang
văn học nghệ thuật nhằm chia sẻ, đăng tải các sáng tác của văn hữu trong đủ mọi
thể loại kể cả hội họa và âm nhạc. Tôi theo dõi để phát hiện là anh làm thơ
không nhiều. Nhìn lại suốt mấy mươi năm buồn vui cộng hưởng trên chặng đường
dài, tác phẩm anh hiện diện với đời chỉ có:
Đời Như Một Khúc Nhạc Buồn (Thơ,
1972)
Tạ Ơn Những Giọt Sương (Thơ, 1974) Mây Khói Quê Nhà (Thơ tuyển, 2010) Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt (Truyện, 2013) Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương (Thơ, bản in đầu 2015)
Năm (5) đứa con tinh thần, như vậy là
ít so với nhà thơ Luân Hoán và nhà thơ nhà văn Trần Hoài Thư. Sở dĩ tôi mang
Phạm Cao Hoàng đối chiếu cùng nhị vị kia bởi lẽ vô tình, cả ba người đều có
chung một điểm trùng lẫn đáng ngợi ca, ấy là họ rất mực thương quý người đi lặng
lẽ bên cạnh cuộc đời thăng trầm, gánh vác và thông cảm những hệ luỵ mà nhà
thơ thường gặp phải. Tôi đã diện kiến với cả ba (3) chị, họ đẹp mà chẳng cần
nương nhờ tới phấn son, bội phần rạng người qua thơ người chồng biểu đạt, chẳng
mỏi mệt. Một trích đoạn đơn cử:
“cùng em ra sân cào tuyết
biết là vất vả mà vui và cứ hồn nhiên em nhé cùng tôi đi giữa cuộc đời
thức dậy lúc ba giờ sáng
ngoài trời tuyết trắng như bông tôi yêu những bông tuyết trắng và yêu em – đoá hoa hồng”.
Nhảy qua bài khác, gặp phải:
“thương em ngày nắng Tuy Hòa
chiều mưa Đức Trọng, sáng Đà Lạt sương thương em và những con đường một thời tôi đã cùng em đi về …. thương em nắng dãi mưa dầu đau cùng tôi với nỗi đau riêng mình chia cùng tôi một chút tình của ngàn năm trước và nghìn năm sau
về đâu chẳng biết về đâu
thôi thì về lại buổi đầu gặp em dòng sông xưa ấy êm đềm mùa thu năm ấy bên thềm lá bay bàn tay nắm chặt bàn tay dìu nhau qua những tháng ngày gian nan”.
Như vậy, cần phụ chú thêm, nổi bật
trong thơ Phạm Cao Hoàng là hai chủ điểm: Yêu ruộng, vườn, đất, nước và yêu
“Em”. Quyện lại, hòa nhập trong nỗi nhớ thương đằm thắm, thật thà. Cả hai đều
son sắt, thủy chung.
Nhà thơ Phạm Cao Hoàng vốn ít nói,
không nhiều tâm sự. Tôi lạm bàn dài dòng như trên e sợ làm trái ý anh. Tôi chỉ
là một người đọc bình thường tới tầm thường, đứa ấy không giỏi chuyện bình
thơ, chỉ biết ghi lại đơn sơ một vài cảm nhận trong nhất thời. Dù có thế nào
đi chăng nữa, tôi xin được cảm ơn nhà thơ Phạm Cao Hoàng vừa trao gửi cho tôi
ít đất đai thu giấu trong phong bì vàng, mở ra nghe dậy mùi thơm hoàng thổ.
Hoàng thổ có thể là ám danh của ngày xưa Đà Lạt, hoàng thổ là đất vàng và
hoàng thổ cũng nên hiểu là giọng thơ chân chất hiền lành của người mang tên
Hoàng, Phạm Cao Hoàng. Tôi trân quý và tôi xin giới thiệu tới bạn đọc một thi
phẩm hay vừa được in tới lần thứ ba.
Hồ Đình Nghiêm
Montréal, Oct. 17, 2018 |