Ngay tự đầu thập niên
1970, tiếng thơ Phạm Cao Hoàng xuất hiện trên nhiều tạp chí văn học ở miền Nam,
như Văn, Văn Học, Bách Khoa, Vấn Đề… đã tạo được sự chú ý đặc biệt từ văn giới.
Với hai thi phẩm xuất bản
lần lượt các năm 1972, là “Đời Như Một Khúc Nhạc Buồn,” rồi “Tạ Ơn Những
Giọt Sương” năm 1974, tên tuổi Phạm Cao Hoàng trở thành một trong những thi sĩ
được đông đảo độc giả thời đó, yêu thích.
Không chạy theo xu hướng
thời thượng ở thời điểm kể trên; thí dụ xu hướng chống chiến tranh, hay khuynh
hướng mang “buồn nôn” (ảnh hưởng triết lý hiện sinh của Jean Paul Sartre) vào
văn chương. Ông cũng không cho thấy có chút ý hướng biểu diễn chữ, nghĩa một
cách khinh bạc (trong khi đời thường mưu cầu chức tước), với những ý niệm triết
lý xào nấu, mang đầy tính khoe khoang… “đe dọa!”
Họ Phạm lặng lẽ đem mình
ra khỏi trào lưu, xốc nổi thời thế. Ông tự tin, thanh thản với những đường bay
thi ca bình thường mà sâu sắc, giản dị mà cảm động, qua những chủ đề, tưởng như
tầm thường mà, rất gần nhân thế; rất gần tình yêu con người và; đất nước của
ông.
Với tôi, đó là chủ tâm đem
vào thơ những địa danh họ Phạm đã sống, như đã từng chết trong chúng.
Với tôi. Đó là hình ảnh
không thể thân thiết hơn với đấng sinh thành, với người yêu (cũng là người
bạn đời “Cúc Hoa”) và, với rất nhiều bằng hữu gần, xa trong đời thường của người
thi sĩ, vẫn nâng niu, chữ, nghĩa, dù ở nơi chốn nào nơi xứ người…
Ở phần “Phụ Lục” cuối tuyển
tập thơ mới nhất, tựa đề “Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương” do Thư Ấn Quán, in lần thứ
ba, tại Hoa Kỳ, 2018, nhà văn Phạm Văn Nhàn, trong bài “Đất và Người,” viết: “Gần
đây, đọc được bài thơ ‘Cha Tôi’ của Phạm Cao Hoàng, viết về người cha đã qua đời
cách đây 40 năm, tôi vô cùng xúc động.
…
‘ông qua đời khi chiến
tranh kết thúc
để lại trần gian nỗi nhớ
khôn nguôi
để lại đàn con trên quê
hương tan tác
để lại trong trong tôi vết
thương mang theo suốt đời.
…
bốn mươi năm rồi con vẫn
nhớ, cha ơi!
ngày mùa đông cha mặc áo
tơi ra ruộng
ngày nắng lửa cha gò mình
đạp lúa
những sớm tinh mơ cùng đàn
bò lầm lũi đi về phía bờ mương’
(Cha Tôi, 2015)”
Cũng từ quá khứ thơm nồng
tình bằng hữu, tác giả Phạm Văn Nhàn viết tiếp: “Dạo ấy, mỗi lần ghé
Tuy Hòa, tôi ở lại cùng Phạm Cao Hoàng trong căn nhà nhỏ của gia đình Hoàng. Đọc
bài thơ ‘Cha Tôi,’ tôi nhớ đến ngôi nhà và hình ảnh bác trai. Bác cao, hơi gầy
và da ngăm đen. Cái đen của nắng và gió, của một người nông dân thuần chất. Hiền
và độ lượng. Ngôi nhà có cái chái bếp nấu ăn bằng những thanh củi. Ngôi nhà có
bộ ván ngựa mà tôi và Trần Hoài Thư thường nằm ngủ…
mùi hương của đất làm con
nhớ
những giọt mồ hôi những nhọc
nhằm
cha đã vì con mà nhỏ xuống
cho giấc mơ đời con thêm
xanh
mùi hương của đất làm con
tiếc
những ngày hoa mộng thuở
bình yên
nồi cá rô thơm mùi lúa mới
và tiếng cười vui của mẹ
hiền”
(Mây Khói Quê Nhà, 1999)
Bài thơ làm tôi nhớ đến
con đường dọc theo nương dẫn thủy nhập điền từ đập Đồng Cam về tưới tiêu cho những
cánh đồng rộng lớn. Tôi đã từng đi trên con đường này. Tôi lại nhớ đến năm
tháng ở trại A.30 và ngày được thả cho về trên chuyến xe lam chạy trên con đường
ấy dọc theo những cánh đồng xanh màu xanh của lúa… (Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương,
trang 103, 104, 105).
Về tình yêu nơi chốn,
ngoài sinh quán Phú Thứ, thì, Đà Lạt là nơi được Phạm Cao Hoàng nhắc tới nhiều
nhất. Tựa đó là tình yêu đầu tiên và cũng là cuối cùng của ông, bên cạnh tình
yêu ông dành cho những nơi chốn khác:
…Tôi yêu Đà Lạt bởi có Cúc
Hoa trong đó. Dường như ta nghe Phạm Cao Hoàng thì thầm như vậy. Ít người có được
cái tình và những lời như tác giả ‘Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương’ nói với người bạn
đời của mình. Cảm động nhất là những lúc gian nan, hoạn nạn. Như cách đây mấy
năm khi Cúc Hoa phải vào nhà thương cấp cứu vì bị đụng xe, lúc trở về phải ngồi
xe lăn:
“…em đi xe lăn mà vui
lăn đi em nhé cho vơi nỗi
buồn
đưa em về phía con đường
có con sóc nhỏ vẫn thường
chào em
hát em nghe bài Je t’aime
kể em nghe lại chuyện tình
Cúc Hoa
em đi xe lăn về nhà
mùa xuân nhè nhẹ bước qua
bậc thềm”
(Đã Qua Rồi Một Mùa Đông,
2012)
Như đã nói, tình yêu nơi
chốn, tựa bất cứ một thứ tình cảm nào, luôn là những ngọn lửa thương yêu bập
bùng trong tâm-thức-thương-tích của một Phạm Cao Hoàng, thi sĩ.
Với tôi, nó không chỉ là vết
son đậm trên dung nhan thi ca họ Phạm, mà hiểu rộng ra, đó còn là tình yêu gắn
bó, bất biến giữa thi sĩ và đất nước của ông:
“…đi không phải là đi biệt
xứ
thương quê nhà còn lại
phía sau lưng
lại cùng em lang thang bên
hồ Thạch Thảo
nói với em về một đoạn đời
buồn
nói với em về những dòng
sông lưu lạc
trôi về đâu rồi cũng muốn
trở về nguồn.”
(Trích “Chia Tay Đà Lạt,”
Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương, trang 37)
Hoặc:
“ngồi bên nhau giọt rượu
cay trong mắt
ngồi bên nhau cùng nhớ một
quê nhà
quê nhà thì xa mây thì bay
qua
đời phiêu bạc như những
đám mây trôi giạt
nhớ Ngựa Ô là nhớ những
bàn tay ấm áp
tôi thương Ngựa Ô và
thương bạn bè tôi.”
(Trích “Thương Nhớ Ngựa
Ô,” Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương, trang 52)
Hoặc nữa:
“…bây giờ bốn mươi năm sau
tôi về, mây trắng trên đầu
bay ngang
vẫn cùng em đi lang thang
vẫn yêu em đến vô vàn, biết
không?
vẫn yêu Đà Lạt vô cùng”
(Trích “Chiều Đi Ngang Qua
Thung Lũng Fox,” Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương, trang 86)
Tới đây tôi xin tạm ra khỏi
cõi-giới thi ca Phạm Cao Hoàng, bằng mấy câu thơ đẹp của ông, trích từ bài “Đà
Lạt và Câu Chuyện về Khu Vườn Thi Sĩ”:
“em mặc chiếc áo dài màu
xanh của miền đồi núi
đôi mắt hồn nhiên như một
bài thơ tình
(…)
tôi gọi đó là vườn thi sĩ
em gật đầu cười rất nhẹ:
‘em sẽ ở cùng anh trong
khu vườn đó’
và bàn tay tôi vừa chạm
tim em.”
DU TỬ LÊ
Chú thích:
(*)
Nhà thơ Phạm Cao Hoàng, nguyên quán: Phú Thứ, Tuy Hòa, Phú Yên. Hiện sống và
làm việc tại Virgnia, Hoa Kỳ. Ông đã cho XB tất cả 5 tác phẩm. Hầu hết là thơ.
Chỉ có một tập truyện: “Mơ Cùng Tôi Giấc Mơ Đà Lạt.”
Nguồn: Báo NGƯỜI
VIỆT (California, USA), 8 tháng 12.2018