Sunday, April 5, 2020

1521. PHAN NI TẤN Những người nữ trong thơ Trần Yên Hòa

Beautiful girl with flying hair – By Iryna Sevastianova

TRẦN YÊN HÒA hơn năm mươi lăm năm THƠ là tập thơ phản ánh tâm trạng của nhà thơ qua nhiều thể loại thơ khác nhau.
Từ một cậu học trò xuất thân trong một gia đình văn hóa xứ Quảng, Trần Yên Hòa bắt đầu làm thơ lúc mười hai tuổi. Từ những bước đầu chập chững đến nay, sau hơn năm mươi lăm năm làm thơ, nhà thơ nhìn lại chặng đường dài đã đi: "Cha tôi cũng mê thơ. Ông có làm thơ đường, thơ thất ngôn bát cú và họa thơ (…). Hay mẹ tôi, thường hát ru tôi bằng những câu ca dao thắm đượm mùi vị quê hương, tình yêu trai gái, nên tôi thấm sâu vào lòng những âm thanh ấy, để rồi sau này tôi yêu thơ và làm thơ…".

Phần tự sự trên đăng trong tập thơ TRẦN YÊN HÒA hơn năm mươi lăm năm THƠ là một phần đời của Trần Yên Hòa được tác giả kể lại bằng thi ca.
Sáng tạo nghệ thuật trong suốt tập thơ dầy 338 trang gồm 123 bài, Trần Yên Hòa đã hình dung được hình tượng, phác họa ra chữ nghĩa vọng âm như một tiếng thở dài. Bài thơ Khúc Tôi mở đầu trang thơ cho tới bài Tạ ở cuối tập, đã là một tiếng thở dài. Nỗi hoài vọng trong suốt Khúc Tôi là hình ảnh quá khứ những người thân từ hồi nào đã không ở cùng tác giả mà… ở đâu đó. Ngữ pháp u trầm nhưng rất sắc qua quan hệ tình cảm ruột rà của tác giả là một thí dụ:
… Mẹ yêu dấu cũng trở về với đất
đất thì im lặng tiếng, mịt tăm
nên lời mẹ đã ngút ngàn phơ phất
bỏ mình tôi cùng đá cuội, lăn tăn

Cha thương nhớ cách xa như cổ tích
mệt nhoài tôi đứng lặng, thư phòng
nhìn quanh quất đâu dấu hài, tịch mịch?
dấu hài em lặn mất giữa dòng

Còn lại chị, còn lại anh, đâu đó
không thấy ai, hú gọi tôi về
còn lại con… con còn đang cất vó…
hồng ân chưa cập bãi sông mê…

Nhưng thiết nghĩ hình ảnh cố nhân, là đối tượng Em của tác giả mới là tâm ý của bài thơ, có điều cuối cùng cũng xa lắc từ bao giờ:
  
Tôi còn lại em, mà em xa lắc
nên còn lại tôi, chỉ một tôi thôi
vì em, biển, còn tôi, là cát biển
lũ dã tràng kia, se, cũng, lở, bồi
Khúc Tôi, tr. 16

Đọc trang tự sự của Trần Yên Hòa cho thấy người thơ cô đơn cả ngoài đời lẫn trong thơ, vì chiến tranh, Trần Yên Hòa đã nhận rõ vị trí lính chiến của mình, xông pha ngoài mặt trận. Do đó, bài thơ viết trên ba-lô, trên mặt đá hay bên bờ sông, dốc núi, bìa rừng khẽ bật lên một lời xin nhỏ, dù chỉ một lần thôi:

Cho tôi được ngủ nhà đêm nay
cho tôi ngủ nhà đêm nay rồi mai đưa tôi đi đâu cũng được
bao nhiêu tháng bao nhiêu năm
tôi sẽ xa thành phố xa mái tóc em xa những đứa con yêu dấu
hãy cho tôi ngủ nhà đêm nay
không còn gì để van xin
sao đẩy tôi đi quá xa như vậy quá xa như vậy
hở chiến tranh loài người…
Lời Xin, tr. 20

Ngoài tình thương gia đình, có thể nói tình yêu đôi lứa trong thơ Trần Yên Hòa là một loạt tình yêu không có màu xanh của bầu trời và biển cả. Đồng ý sức mạnh tinh thần của người thơ tạo ra thơ, nhưng hình ảnh những người tình trong thơ đều như gió bay đi xa lăng lắc, không để lại một vạt áo nào để người thơ rưng rưng đề thơ. Cho nên Em có bàng bạc bay đi, bay về, qua lại từng trang thơ trữ tình, rốt cuộc vẫn là Em… lê thê bào ảnh:

Em đến thăm anh trong chốc lát
trời bên ngoài đổ cơn mưa
mưa rất dầy, mù mịt
làm sao anh giữ được em

Chốc lát em trở thành thánh nữ
ở đâu cũng thấy em ngời sáng
cả vườn đời anh nở rộ
những đóa hoa hồng thắm

Rồi em ra về như gió bay
Bỗng dưng em xa lắc
Bỗng dưng em mịt mù như cơn mưa…
Em Xa Lắc, tr.31

Ngay cuộc tình thứ nhất vì cơn mưa đã làm cho ủ dột:

Có lẽ rất xưa – ngày em vào xuân
đôi má em hồng như trái bồ quân
đôi mắt em đen như nhung, ướt rượt
đốt cháy hồn anh cùng nắng sân trường

Rồi thế rồi thôi lạc mất nhau
lạc nhau đành đoạn suốt nửa đời
lạc nhau trong giấc chiêm bao cũ
biển loạn đời ta, thân nổi trôi…
Bài Trăm Năm, tr.39

Mưa miền Trung thường dầm dề. Mưa của nhà thơ Trần Yên Hòa cũng không khác. Từ cuộc tình thứ nhất mưa đành đoạn, mưa dầm dề, lê thê cho tới cuộc tình cuối vẫn mưa không ngớt hột:

Em về đâu từ bao lâu nay
Anh xa em như chim xa bầy
Mưa bay ướt áo em đang mặc
Đành đoạn rời đi như đám mây
         Mưa Em, tr. 326

Rón rén lần theo những cuộc tình thơ đẹp mà buồn được miêu tả qua từng trang Rượu Tình Say, Gởi Khổ Lụy Một Đời, Tạ Tình, Xa Người, Phượng Hề, Cô Gái Tam Kỳ Đất Khổ, Nhớ Em Khi Qua Cầu Cỏ May, Tôi Và Em, Tình Quay Lưng, Tình Em Xa Ngái, Bài Tình Cho Diên Khánh, Thà Người Phụ Ta v.v…, người ta cảm thương cho người thơ tội nghiệp ra sức bơi trên sóng tình yêu hầu mong tìm nguồn hạnh phúc khổ đau. Từ bơi ngửa với cuộc tình dịu ngọt vội xấp mặt trên dòng nước lạnh tê. Từ vòng ôm rưng rưng xiết chặt chợt hụt hẫng giữa khung trời hiu hắt. Từ những lời thỏ thẻ của em Hiền, em Thu, qua những tiếng cười rơi xuống của em Hoa, em Phụng, hơn nửa đời nhen nhúm mê vọng bỗng nhiên quay ngoắt đến nỗi người lầm lỡ phải ta thán "hất anh ra phân nửa cuộc đời, mùi tình xưa trở nên đắng nghét".

Trần Yên Hòa với hơn năm mươi lăm năm ăn nằm cùng thơ đã trở thành một mối lợi cho sự hình thành tập thơ gối đầu. Thế nhưng trong khi mượn thơ để thổ lộ tâm tình, lịch sử tình yêu lại làm chứng cho cơn thất tình rực rỡ của người thơ. Nhưng không phải lần duy nhất người tình bỏ đi mà về sau những Em Uyên, Em Phượng, Em Tam Kỳ, Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Mỹ Tho… lần lượt trở thành Em xa lắc như tranh cổ tích, em thiên thu đâu tận cõi ngoài, như Trần Yên Hòa thở than. Rồi em trích tiên, em điệu, em phù thủy cũng là một cái "khổ ách" xô người thơ ra khỏi "mái hiên đời":

Em, tình ta, mái hiên đời nắng dịu
sao bỏ đi xa ngút tận trời nào
Khản Cổ Gọi Tình Về (1), tr. 68

Em ơi, đã quá xa tay với
mù mịt người từ độ chiến chinh
mù mịt nhau nên đành lạc mất
Khản Cổ Gọi Tình Về (2), tr. 70

Từ em, bỏ cội bỏ nguồn
bỏ con sông nước đứng buồn nhìn theo
nhánh sông chảy miết qua đèo
anh heo hút đợi, chèo queo một mình
Khản Cổ Gọi Tình Về (3), tr. 75


Bị tước mất tình yêu, không thể níu lại chút mảnh vụn của thế thái nhân tình, người thơ cay đắng mà thiệt thà biến những Em xinh tươi, lộng lẫy thành giấy bút trắng tinh khôi, một trang vở mới (Thuở Em Là Nữ Sinh), Thiên nga bé nhỏ (Bài Tình Năm 2000), Mùa vàng rưng hoa cúc (Lãng Mạn Thu), Con chim nhỏ (Thảng thốt tôi)… Thậm chí, biến Sài Gòn thành em; cả con mắt cũng hóa trăng rằm "Mắt em một thuở trời trăng rằm" (Chung Một Nhánh Sông). Lãng mạn thật nhưng cũng thật cảm động với lời Tự Tình Cùng Dất Nước: "Vì Em cùng nghĩa với Mẹ. Cùng nghĩa với Quê Hương, Đất Nước" (tr.63).

Mà cũng lạ. Giữa nỗi buồn chênh vênh tưởng người thơ không toét nổi miệng cười, người đọc bất ngờ nhận ra câu ví von khá ngộ nghĩnh về mưa. Nhà thơ xứ Quảng ra Huế đụng phải cây mưa mà ngẫu hứng nảy sinh một ý tưởng đầy thi vị, cái thi vị không giống với bất cứ nhà thơ nào. Nhờ sự thành tâm của tác giả khiến đặc tính của câu thơ trong bài Huế Mưa được miêu tả theo kiểu "kích thích tính dục" bỗng trở nên hào hứng, vuốt ve tình tứ mà trong trẻo khác thường:
tôi nghĩ mùa mưa ở Huế nồng nàn như đêm hợp cẩn
bởi vì cái lạnh tê da ngoài Huế cho ta cảm giác ái ân.
Huế Mưa, tr. 23

Cái cảm giác ái ân của người thơ Quảng Nam đâu có khác chi cái ái ân tái tê cuồng dại:
Xin ca tụng em bài thơ mới viết
Giữa ta và say, như một tình cờ
Ta chếnh choáng em, mùi hương mới
Là chanh và sả buổi mai tươi

Em đã xông em. Trong ngày thứ bảy
Nên em thơm lừng, hương gió bay
Nên em thơm lừng, mùi da thịt
Anh cúi xuống vùng em, mùi thơm ngát

Vùng em thơm rất đượm. Tình Ơi.
Ru Tình Tôi, tr.188

Đặc tính trong thi pháp Trần Yên Hòa là ngữ vựng. Bài thơ dài hơi "Nhặt Khoan Cho Ngày Sinh Nhật" gồm 64 câu, đã có 5 lần kêu Huớ, nghe ra thật ồn ào:

Huớ em tôi, những ngày tình với Nẫu
Huớ em tôi, hãy bỏ xa tiền kiếp
Huớ em tôi, mùa xuân xanh lại đến
Huớ em tôi, ngày mai anh sinh ra
Huớ em tôi, không quay lui lại nữa

Tiếng Huớ diễn tả niềm vui trong ngày sinh nhật của tác giả, với tôi là lạ tai. Dù vậy, tiếng Huớ dễ thương của "dân nẫu" có phải là tiếng Bớ của người miền Nam: Bớ người ta! Bớ làng nước ơi! Bớ em!?

Bài "Bắt Đầu" có hai câu: Mới rợi này em, ngày mới rợi. Bỏ đàng sau, năm tháng, cô đơn. "Mới rợi" nghĩa là gì? Có phải là "Mới tới"?
Bài  "Bờ Em": Khi tình cuốn ta trôi chấp chới. Giữa cuồng lưu biết bíu vào dâu. "Bíu" có phải lài Níu? Chao ôi! Ngôn ngữ của Nẫu quả là… nẫu nẹt, là lạ tai tôi.


Trần Yên Hòa sống trọn đời, tận tụy cho nghiệp thơ. Làm thơ vì đời, vì người (nghệ thuật vị nhân sinh). Hơn năm mươi lăm năm hướng về thế giới thơ, nghệ thuật Trần Yên Hòa nặng nợ với những đối tượng rục rỡ, thủy chung với những hình thể chói lòa để rồi chất chứa nỗi u sầu rã mục, dẫn lối vào không gian đơn chiếc độc thoại với âm u. Nghĩ lại mà tội người thơ đã lầm yêu phải thứ tình yêu chớp mắt, thứ tình yêu con bướm (đậu rồi bay đi), nó ray rứt não nề, nó ruồng rẫy biệt ly ngay từ cuộc tình đầu tay. Ta đọc lại đoạn cuối "Bài Trăm Năm" (tr.37):

Nửa đời ta như mưa phơ phất
Bỗng nhặt được lòng nhân ái từ tâm
của em, đánh rơi vào tình thứ nhất
để ta ôm hoài đi giữa nhân gian

Nhân gian ở đây rõ ràng không bình thường như người bình thường sống giữa đời thường mà nhân gian của người thơ là lai láng "sông mê" không bờ bến. Con sông mê muội chảy ngược xuôi giữa hồn đời sắc sắc, không không rồi thấm vào Bát Nhã. Người thơ thất tình lục dục lúc bấy giờ hốt nhiên đốn ngộ, dứt bỏ hết khổ ách (năng trừ nhất thiết khổ), biến thành "sa di" gánh cái chân tình tự ngã lững thững đi vào trang Tự kinh:

Thầm thì, thầm thì, rậm rịt
Tiếng cầu kinh trong đêm thâu
Ba la mật đa yết đế
Hãy quên cuộc sống nát nhầu

Đã qua bên bờ bỉ ngạn
Lời kinh chảy suốt qua tâm
Gió ngoài hiên tuôn thốc tháo
Dội qua tiếng kệ âm thầm

Ba la mật đa thời
Quên giọt máu bầm năm tháng
Quên hết những trò gian lận
Trở về gốc cội nghỉ ngơi

Thầm thì, thầm thì, tiếng mõ
Ngũ uẩn phút giây cuồng nộ
Hãy quên, hãy quên, hãy quên
Nằm kề trang kinh bát nhã.

Mang âm hưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh của Phật Giáo Đại Thừa trải qua từ bảy thế kỷ đến nay, bài "Tự Kinh" (tr. 229) của Trần Yên Hòa với thi phong an nhiên tự tại thấm thía một đạo lý thâm hậu.

Phan Ni Tấn