Thursday, January 21, 2021

1915. Tự Lực Văn Đoàn - Văn Học Và Cách Mạng



Tú Mỡ và Thế Lữ 

Tú Mỡ

Tú Mỡ

Tú Mỡ kể lại với Lê Thanh năm 1943: Ông tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh ngày 14-3-1900 tại phố Hàng Hòm, Hà Nội. Năm tuổi học chữ nho với ông nội, học hết Tam Tự Kinh, Dương Tiết, thì ông nội chết, cha cho học tư trường cụ giáo Quý, rồi các trường Hàng Bông, Hàng Vôi, đến hết bậc tiểu học. Đậu bằng sơ học Pháp-Việt năm 1914. Học trường Bưởi, cùng lớp với Hoàng Ngọc Phách. Tú Mỡ làm thơ từ năm thứ ba, 16 tuổi, bắt đầu vịnh cái chuông xe điện, vịnh các viên giám thị… để nhạo báng. Năm sau (1917) mê thơ Tản Đà, Tú Xương. Từ "thầy" Tú Xương, lấy biệt hiệu Tú Mỡ.

Đỗ bằng thành chung năm 1918, vào làm sở Phi-Năng (Finance, Tài chính). Sau hai năm làm việc, thấy những điều "trái tai gai mắt", chuyển sang làm thơ trào phúng. Bài thơ đầu tiên là "Bốn cái mong của thầy phán" gửi đăng tạp chí Việt Nam Thanh Niên:

"Làm nghề thầy ký với thầy thông

Sống ở bên đời có bốn mong:

Mong tháng chóng qua tiền chóng lĩnh,

Mong giờ mau hết, việc mau xong,

Mề-đay mong được dăm mười chiếc

Lương bổng mong tăng sáu bẩy đồng.

Hãy tạm thời nay mong thế thế.

Còn bao mong nữa xếp bên lòng".

Về thời kỳ Phong Hóa, Tú Mỡ kể lại với Lê Thanh:

"Trước hết, chúng tôi chỉ có mấy người, đầu có anh Tam, anh Long (anh anh Tam, tức là Hoàng Đạo) anh Lân em anh Tam, tức là Thạch Lam) và tôi.

Mấy tháng sau mới có Khái Hưng và một năm sau, anh Thế Lữ.

Anh Tam thuê một cái nhà ở dưới ấp Thái Hà để mấy anh em làm việc. Tôi đi làm thì chớ, về là đến đấy bàn bạc về cái "tôn chỉ" của tờ báo và soạn bài vở dự bị cho đủ in trong sáu tháng. Anh Tam vừa viết vừa vẽ… Anh đặt ra mục này mục nọ, giao cho mỗi người. Anh có cái óc làm việc rất khoa học, anh đã giao cho ai việc gì thì chỉ chuyên làm việc ấy.

Nhiều lúc tôi ngỏ ý viết những bài thuộc về loại khác, anh khuyên chỉ nên chuyên về một lối. Có lẽ là một điều rất hay cho chúng tôi.

Tôi có thể nói anh Tam là người đã tạo ra Tú Mỡ vậy."[1]

Đoạn văn trên đây có lẽ ông viết rất thực tình, chứng tỏ ông là người hiền lành có sao nói vậy. Tuy nhiên cũng lại cho thấy Tú Mỡ không biết rõ anh em Nguyễn Tường nên ông tưởng Nhất Linh là em Hoàng Đạo; và trí nhớ của ông không tốt, những việc xảy ra trước đó có 11 năm (Phong Hoá số 14 ra ngày 22-9-32), mà ông đã nhớ nhầm, những điều ông tưởng: mấy tháng sau mới có Khái Hưng, hay tôi đi làm về là đến đấy bàn bạc về cái tôn chỉ tờ báo đều sai cả, vì theo lời Trần Khánh Triệu thuật lại thì Tú Mỡ ở xa, trong tuần đi làm, cuối tuần mới ghé qua toà soạn.

Nhất Linh, quen với ông từ trước, cần người làm thơ trào phúng, nên đã mời ông vào làm báo Phong Hoá, ngay từ số 14, là số báo đầu tiên do Tự Lực văn đoàn chủ trương. Có lẽ Tú Mỡ lầm tờ Phong Hoá số 14, với tờ Tiếng Cười, trước đó Nhất Linh đã định ra nhưng không thành vì thiếu tiền. Và Tú Mỡ cũng không biết Khái Hưng đã "ở trong" Phong Hoá từ số 1.

Vì vậy, chúng ta nên thận trọng khi dùng những lời tự thuật, ngay cả của những người đã từng "ở trong văn đoàn".

Tác phẩm thành công và nổi tiếng nhất của Tú Mỡ là Tự thuật "Thất ngôn thập bát cú!" bài thơ đầu tiên của ông đăng trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932) cùng với bài Phụ nữ với quần vợt của Bán Than (Khái Hưng), trong mục Giòng nước ngược:

Tự thuật

Ở sở Phi-Năng có một thầy,

Người cao rong rỏng lại gầy gầy.

Mặc thường soàng xĩnh, ưa lành sạch,

Ăn chỉ thều thào, thích tịnh chay.

Tom chát quanh năm vài bốn bận,

Say sưa mỗi tháng một đôi ngày.

Tính vui trò truyện cười như phá,

Lòng thẳng căm hờn nói toạc ngay.

Siên sỏ vào tay hơi khá khá

Ở ăn thì nết cũng hay hay!

Yêu người chân thật, người hòa hiệp,

Ghét kẻ chui luồn, kẻ quắt quay,

Võ vẽ hay làm văn quốc ngữ,

Si sô ít nói tiếng âu tây.

Bạn mà bàn đến thi cùng cử

Thời vội van luôn: Tớ lạy mày!


Tú Mỡ


Giòng nước ngược, Phong Hóa số 20


Thơ Tú Mỡ không có cá tính đặc biệt, ông bắt chước được nhiều giọng, khi Tú Xương, khi Xuân Hương, khi Tản Đà… Ông là nhà thơ bẩm sinh, đặt bút ra thơ. Đôi khi làm nhiều quá, dễ dãi hóa nhàm. Nhưng một tờ báo trào phúng không thể thiếu thơ trào phúng, đó chính là lý do Nhất Linh mời Tú Mỡ đầu tiên.

Ở những số báo đặc biệt có chủ đề: chống cái cũ, chế giễu nghị viên, chống kiểm duyệt, chống thực dân… thơ Tú Mỡ góp phần giải toả những căng thẳng trong sự đối đầu, biến những lập luận khô khan thành tiếng cười thư giãn, hài hước hóa những bạo lực, đàn áp.

Khi Mẹ Mốc (Phạm Thị Cả Mốc tức nhà văn trinh thám Phạm Cao Củng) ở Nam Định, "hâm mộ" tài năng, gửi rau muống (giả làm rau sắng) tặng nhà thơ, với lời hò hẹn, đăng trên Phong Hóa số 20 (4-11-32):

Đọc thơ bạn tơ vò chín khúc

Người chưa quen bỗng chốc nên quen

Thẹn mình má phấn răng đen

Quê mùa đâu xứng mối duyên tình cờ.


khiến cho "bà Tú Mỡ" nổi cơn ghen, câu chuyện trở nên thú vị.

Tóm lại, Khái Hưng, Phạm Cao Củng, cũng có thể làm được thơ như vậy.

Nhưng Tú Mỡ là nụ cười thường trực cần có, trên Phong Hóa Ngày Nay.

Thế Lữ

Thế Lữ

Theo tiểu sử Thế Lữ đọc cho Xuân Diệu ghi[2], ông sinh ngày 6-10-1907, tại Thái Hà Ấp, Hà Nội, tên thật là Nguyễn Đình Lễ, sau đổi là Thứ Lễ, vì là con thứ hai. Quê cha làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; quê mẹ Nam Định. Cha làm sếp ga Lạng Sơn, mẹ bán vải, lụa trên tàu hoả. Hai người gặp và lấy nhau nhưng gia đình không nhận, bà nội bắt cha ông phải lấy người khác làm vợ Cả. Thủa nhỏ, Thế Lữ sống với cha và bà Cả đến 9 tuổi ở Lạng Sơn, sau đó về với mẹ đẻ, buôn bán ở Hải Phòng. Mẹ cưới cô Nguyễn Thị Khương cho ông khoảng 1927[3]. Ông học đến năm thứ ba ban thành chung thì bỏ (1929).

Ông kể: "1929-30, tôi lên Hà Nội thi vào trường Mỹ thuật, không đỗ loại chính thức, cho nên theo học với tư cách "bàng thính tự do". Tưởng rằng vào trường Mỹ thuật thì tự do thoải mái, ai ngờ cũng phân biệt giáo sư Tây, giáo sư ta, tôi vẽ giỏi, tuy nhiên, qua một ông giáo lối dạy hết sức gò gập "vẽ trang trí thì chép nhiều mẫu cổ để cho nhiễm vào mình" và với người giám hiệu Pháp khi đó khinh học sinh Mỹ thuật Việt Nam, chưa đầy một năm, tôi thôi học vẽ." [4]

Câu này ông thêm thắt nên sai rất nhiều. Khi lên Hà Nội, năm 1929, ông chỉ có thể ghi tên vào học lớp dự bị thi vào trường Mỹ thuật. Bởi vì trường Mỹ thuật Đông Dương có hai ban: Kiến trúc và Hội họa. Muốn thi vào ban Kiến trúc, thí sinh phải có bằng Cao đẳng tiểu học (tức bằng Thành chung), còn thí sinh thi vào ban Hội họa, không bắt buộc phải có văn bằng gì cả[5]. Hàng năm trường mở kỳ thi tuyển vào mùa hè ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Phnom-Pênh và Vientiane. Khoá đầu 1925, không có lớp dự bị, các thí sinh thi trực tiếp vào trường, kể từ năm 1926, trường mở lớp dự bị một năm cho học trò học trước khi dự cuộc thi tuyển vào trường.

Thế Lữ lên Hà Nội năm 1929, vậy ông chỉ mới theo lớp dự bị thi vào trường Mỹ thuật. Lớp này do một hướng dẫn viên (moniteur) phụ trách, Nam Sơn hướng dẫn lớp này từ năm 1927. Nhưng trong bài hồi ký tự thuật, ông lại nói ông học lối bàng thính tự do tức là ông dịch chữ auditeur libre. Trường Mỹ thuật Đông dương không có lối học này và không thấy sách nào ghi lại. Điều đó dễ hiểu, vì mỗi kỳ thi tuyển ở khắp Đông dương, chỉ khoảng 10 người đỗ. Hầu hết những cựu sinh viên trường Mỹ thuật Đông dương, như Lê Phổ, Nguyễn Tường Tam, Vũ Cao Đàm, Tô Ngọc Vân… đều ghi ơn giáo sư Tardieu (xem chương: Trường Mỹ thuật Đông dương trong một kỳ tới). Và theo lời kể lại của họa sĩ Vũ Cao Đàm, thì ba giáo sư chính, nhất là giáo sư Tardieu, hiệu trưởng, chăm học trò như chăm con (phải học cật lực từ sáng đến chiều), còn thì giờ đâu lo cho học trò bàng thính?

Nhưng những điều Thế Lữ kể đã được nhiều người chép lại, nên sau này người ta cứ hiển nhiên ghi người này người kia, như Phạm Duy, Văn Cao… học lối bàng thính tự do là sai cả.

Tóm lại, Thế Lữ chỉ mới học lớp dự bị thi tuyển vào trường Mỹ thuật, chưa được một năm thì bỏ. Lớp này do moniteur hướng dẫn. Ông chưa đỗ vào trường, nên chưa được học các giáo sư thực thụ như Victor Tardieu hay Inguimberty… vậy mà ông kể: Tưởng rằng vào trường Mỹ thuật thì tự do thoải mái, ai ngờ cũng phân biệt giáo sư Tây, giáo sư ta, tôi vẽ giỏi, tuy nhiên, qua một ông giáo lối dạy hết sức gò gập "vẽ trang trí thì chép nhiều mẫu cổ để cho nhiễm vào mình" và với người giám hiệu Pháp khi đó khinh học sinh Mỹ thuật Việt Nam, chưa đầy một năm, tôi thôi học vẽ ".

Than là mình học giỏi nhưng bị phân biệt giáo sư Tây, giáo sư ta, giám hiệu khinh học sinh Việt Nam… Giám hiệu này là ai? Có phải Tardieu không?

Đây là lối viết bịa đặt để kể tội Tây, bằng bất cứ cách nào. Thật đáng buồn và xấu hổ, nhất là lại được nhiều người chép lại.

Vẫn theo bài Hồi ký tự thuật, từ hồi còn học dự bị trường Mỹ thuật, Thế Lữ đã viết ba truyện: Một chuyện báo thù ghê gớm, Tiếng hú hồn của mụ ké và Tiếng nói thầm của người chết, đưa nhà Tân Dân in, ký tên Nguyễn Thế Lữ (Thứ Lễ nói lái).

Ông bỏ Hà Nội về Hải Phòng khoảng 1930, bắt đầu làm văn, thơ. Rồi ông bị lao, mẹ cho ông ra Đồ Sơn hai năm để dưỡng bệnh. Trong thời gian này, nhân đi chơi Chùa Hang, cảm hứng không khí hang dơi ở đây, về Hải Phòng, ông viết truyện Vàng và máu, (khoảng 1932) gửi đăng Hà Thành Ngọ Báo.

Bút hiệu Nhất Chi Mai

Thế Lữ gửi bài cho Phong Hóa rất sớm, với bút hiệu Nhất Chi Mai, từ giữa năm 1932, lúc còn ở Hải Phòng. Phong Hóa số 4 (7-7-32) đã đăng bài Quần trắng, áo lam. Tiếp đó là Một buổi diễn kịch làm phúc (Phong Hóa số 5, 14-7-32) và đoản thiên tiểu thuyết Bả phồn hoa (Phong Hóa số 6, 21-7-32).

Quần trắng, áo lam viết về mốt áo dài lam quần trắng của phụ nữ, đang thịnh hành thời ấy. Lời văn Nhất Chi Mai rất mới và bay bướm: "các bà các cô tha thướt quần trắng áo lam. Trận gió mát thoảng qua trắng lam bay lộn đã khéo khiến cho các bà, các cô tương tự như tiên nữ ở chốn non bồng".

Một buổi diễn kịch làm phúc tường thuật buổi diễn tuồng cải lương "Tủi cho hoa", tối thứ bảy 9-7-1932 ở nhà hát Tây Hà Nội (nhà Hát Lớn), lấy tiền giúp nạn lụt miền Trung. Bài này cho thấy sự đam mê của Thế Lữ đối với kịch trường, ngay từ năm 1932, đã có những nhận xét sắc sảo của một nhà đạo diễn.

Đoản thiên tiểu thuyết Bả phồn hoa là một truyện ngắn hiện thực xã hội, viết theo lối kể chuyện, giọng văn sắc sảo, chứng tỏ thời ấy Thế Lữ viết văn đã có tay nghề. Sau đó, không thấy bút hiệu Nhất Chi Mai xuất hiện trên Phong Hoá nữa.

Thế Lữ xuất sắc trong những bài thơ mới đầu tiên 

Thế Lữ trở lại Phong Hóa từ số 27 (23-12-32) với truyện trinh thám Thây ma xuống thang gác. Truyện này gửi đến toà soạn đúng lúc Nhất Linh đang muốn bỏ trinh thám, nên được đăng ngay. Ba tuần sau, Phong Hóa số 30 (13-1-33) đăng truyện Con châu chấu ma, hay hơn truyện trước.

Thế Lữ "vào" Tự Lực văn đoàn như thế nào?

Trong bài Phóng bút của Lê Ta[6], ông kể lại: "Lần đầu tiên tôi gặp anh [Tú Mỡ] là ngày toà soạn còn ở đường Henri d’Orléans, một cái nhà không có vẻ tòa báo một chút nào hết". Ta lại biết rằng, địa chỉ này (nay là phố Phùng Hưng) chỉ tồn tại từ Phong Hóa số 14 (22-9-32) đến Phong Hóa số 32 (3-2-33). Vậy Thế Lữ đến tòa soạn để lĩnh tiền nhuận bút, vì ông vừa có hai bài được đăng trên Phong Hóa số 27 và số 30, chứ không phải do Tú Mỡ giới thiệu, như nhiều nơi thuật lại.

Sau đó, Thế Lữ gửi đăng liên tiếp ba bài thơ. Bài đầu Con người vơ vẩn đăng trên Phong Hoá Xuân, số 31 (24-1- 33) (đề tặng Trần Bình Lộc) có bốn câu thật hay, sau này rất nổi tiếng:

Cơn gió thổi… là bàng rơi lác đác

Rơi theo loạt nước đọng trên cành.

Những cây khô đã chết cả mầu xanh

Trong cái phút lạnh lùng tê tái ấy


Phong Hóa số 37 (10-3- 33) có Lựa tiếng đàn, bài thơ thứ hai của Thế Lữ, làm tặng các bạn trường Mỹ thuật Hà Nội, có những câu:


Các anh hãy để giọng buồn, thương, ta thán

Cho bọn tôi là một lũ nhạc công

Trăm ngàn năm rút mãi sợi tơ lòng

Cả những khúc sầu vui việc thiên hạ


Phong Hóa số 42 (14-4-33) đăng Người phóng đãng bài thơ thứ ba của Thế Lữ, có những câu:


Gió thổi, tối dần, đường vắng vẻ

Thi hứng nồng nàn, tôi cứ tiến lên…

Cho đến khi Hà Nội sáng chưng đèn

Mới sực nhớ đêm nay không chỗ trọ.


Và Phong Hóa số 44 (28-4-33) đăng Tiếng chuông chùa, bài thứ tư, lời thơ hay hơn trước, nhịp điệu và âm nhạc mới lạ:


Sương lam deo cái buồn mênh mông trên đồng vắng

Nắng chiều xuân rung rinh trong cảnh trời yên lặng

Bỗng thong thả rơi một tiếng chuông chùa

Ở chân trời hay trong cõi hư vô

Bốn bài thơ này xác nhận Thế Lữ là nhà thơ tài hoa nhất trong thời điểm mở đầu của thơ mới. Những trích đoạn trên đây cho thấy Thế Lữ đã dùng những cảm xúc lạ, những chữ mới, âm nhạc mới rất khác người, để làm những câu thơ như: Những cây khô đã chết cả mầu xanh hay Sương lam deo cái buồn mênh mông trên đồng vắng, trong lúc thơ còn quen với những câu rất ước lệ Trời thu xanh ngắt một mầu của Tưong Phố.

Bài thơ Con người vơ vẩn, tuy được đăng trên số xuân (số 31), số đặc biệt lần đầu giới thiệu Thơ mới của Phong Hoá, với Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Tân Việt (Nhất Linh) và Thanh Tâm, nhưng nó được xếp vào một chỗ rất khiêm nhượng, tuy Thế Lữ có những câu thơ hay hơn những người được đề cao. Sau đó, ông gửi thêm ba bài kế tiếp: Lựa tiếng đàn (Phong Hóa số 37), Người phóng đãng (Phong Hóa số 42) và Tiếng chuông chùa (Phong Hóa số 44), bấy giờ Nhất Linh mới nhận thấy tiềm năng thơ của Thế Lữ, nên ông viết bài Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới, in trên Phong Hóa số 54 (7-7-33), giới thiệu rất nhiệt thành.

Thực ra, Nhất Linh chỉ muốn khuyến khích một tài năng mới; nhưng ông bị báo chí đổ xô chỉ trích là thiên vị "người nhà" (Thế Lữ có bài in trên Phong Hóa), bởi vì lúc đó, những bài thơ hay nhất của Thế Lữ chưa in trên Phong Hóa, như bài Hổ nhớ rừng được Nhất Linh trích dẫn và nhắc đến nhiều lần trong bài viết, cũng chưa thấy xuất hiện. Phải đến Phong Hóa số 69 (20-10-33) mới có Tiếng trúc tuyệt vời, rồi số 85, báo Xuân (11-2-34), mới có: Tiếng sáo Thiên thai, Cây đàn muôn điệu, và Phong Hóa số 95 (27-4-34), mới có Hổ nhớ rừng. Cho nên, Nhất Linh bị công kích cũng là phải.

Annam Xuất Bản Cục in Vàng và Máu

Nếu thơ Thế Lữ xuất sắc ngay từ đầu, thì truyện ngắn không được như thế. Ông có bốn truyện được đăng trên Phong Hóa: Thây ma xuống thang gác (Phong Hóa số 27), Con châu chấu ma (Phong Hóa số 30), Cô Bụt (Phong Hóa, số 44), và Giòng máu đứt quãng (Phong Hóa số 53).

Trong bốn truyện này, chỉ có hai là khá: Con châu chấu ma Giòng máu đứt quãng. Tuy vậy, Phong Hóa số 56 (21-7-1933) đã vội quảng cáo: sắp in Vàng và máu của Thế Lữ và Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng do Annam xuất bản cục xuất bản.

Quảng cáo sắp in Vàng và máu, Phong Hóa số 56

Quảng cáo sắp in Hồn bướm mơ tiên, Phong Hóa số 56

Điều này rất lạ, vì hai lẽ: trên Phong Hoá, người ta chưa nghe nói đến Vàng và máu bao giờ, cả tên Thế Lữ cũng còn rất mới, trong khi Khái Hưng đã là một tên tuổi lớn (lúc đó, Phong Hóa đã đăng xong Hồn bướm mơ tiên, sắp hoàn tất Nửa chừng xuân, cả hai truyện đều được độc giả hết sức hoan nghênh).

Tất cả xảy ra rất nhanh, tưởng như Thế Lữ sắp trở thành một "cột trụ" của Tự Lực văn đoàn, với sự đãi ngộ thượng đẳng. Nhưng rồi mọi sự có vẻ như khựng lại. Phải gần một năm sau, Vàng và máu mới được in ra. Tại sao?

Xét kỹ lại những biến chuyển này, ta có thể hiểu như sau:

Tự Lực văn đoàn – hạt nhân đầu tiên có từ Phong Hóa số 1 (xem chương: Sự thành lập Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn) – được thành hình trước Phong Hóa số 14, với Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Tú Mỡ. Nhưng "văn đoàn" này mới chỉ ở trong vòng thân mật của ban biên tập, mới chỉ là văn đoàn nói miệng, chưa thể trình làng, vì chưa có tác phẩm.

Phải đợi đến khi Phong Hóa đăng xong hai tiểu thuyết nền móng Hồn bướm mơ tiên, từ số 20 (4-11-32) đến số 29 (6-1-33) và Nửa chừng xuân, từ số 36 (1-3-33) đến số 63 (8-9-33), thì họ mới tính đến chuyện in sách để có tác phẩm.

Vì thế Annam Xuất Bản Cục ra đời, quảng cáo trên Phong Hóa số 45 (5-5-33), địa chỉ: số 1 Avenue Carnot, cũng là địa chỉ tòa soạn Phong Hóa. Annam Xuất Bản Cục là tiền thân của nhà xuất bản Đời Nay.

Khi Tự Lực văn đoàn đã có nhà xuất bản, đã in tác phẩm rồi, thì mới có thể ra mắt độc giả. Vì vậy, trên Phong Hóa số 56 (21-7-33), lần đầu xuất hiện hai khung quảng cáo, ở trang 5: Tự Lực Văn Đoàn sắp ra Hồn bướm mơ tiên Tự Lực Văn Đoàn sắp in Vàng và máu.

Hồn bướm mơ tiên là phải rồi, nhưng tại sao Vàng và máu? Truyện này chưa từng xuất hiện trên Phong Hóa?

Sự thật có thể chỉ đơn giản như thế này: Thế Lữ đem đến toà soạn truyện Vàng và máu. Hoặc Khái Hưng hay Nhất Linh khám phá ra Vàng và máu, trên Ngọ Báo, nhưng không được chú ý. Hai ông đọc thích quá, định cho in ngay cùng với Hồn bướm mơ tiên.

Nhưng Vàng và máu không đủ dày, phải có thêm vài truyện ngắn nữa mới thành sách được. Kẹt một điều: sự cách biệt giá trị quá xa giữa Vàng và máu và hai truyện Thế Lữ mới viết: Thây ma xuống thang gácCon chấu chấu ma, khó có thể nghĩ là cùng một tác giả. Vì vậy, ta có thể đoán là đã có sự trao đổi (chắc là khá gay go) giữa Khái Hưng và Nhất Linh về việc nên đưa Thế Lữ vào văn đoàn chưa? Hay phải dừng lại, đợi Thế Lữ có những tác phẩm khá hơn? May mắn là Thế Lữ đã sáng tác những bài thơ có giá trị để xác định mình.

Cho nên đến số Xuân (11-2-34), Phong Hóa 85, mới thấy in quảng cáo: Tự Lực văn đoàn đã xuất bản: Hồn bướm mơ tiên (tái bản), Vàng và máu, Anh phải sốngNửa chừng xuân.

Và sau khi đã xuất bản bốn tác phẩm giá trị, Tự Lực văn đoàn mới có lý do để chính thức ra mắt với bản tuyên ngôn Tự Lực văn đoàn, in trên Phong Hóa số 87 (2-3-34), dưới đây.

Bản tuyên ngôn Tự Lực Văn Đoàn trên Phong Hóa số 87

Tất cả đều xảy ra theo một trình tự đã sắp sẵn: Phải có tác phẩm thì mới có văn đoàn!

Riêng Thế Lữ còn phải qua thử thách một thời gian nữa mới được nhận vào làm việc ở Phong Hóa từ số 91 (30-3-34). Ông kể lại "sự chờ đợi" này trong loạt bài Lê Ta làm báo[7], bằng giọng nửa đùa nửa thật: trong gần hai năm ông phải học làm báo mà không thể xin được vào "tờ báo lớn nhất" thời bấy giờ, như thế nào. Có thể vì thế mà Thế Lữ trở thành cay đắng, như lời Nguyễn Vỹ nói với Nhất Linh sau đây:

"Tôi nghe nhiều anh em nói Thế Lữ nó vẫn than phiền rằng anh [Nhất Linh] coi nó như "parent pauvre" (người bà con nghèo) anh và Khái Hưng hất hủi nó phải không?

- Láo! Thế Lữ nó hưởng đầy đủ mọi thứ quyền lợi cũng như tôi và Khái Hưng. Nhưng tính nết của Thế Lữ không thích hợp lắm với tôi. Khái Hưng thường cãi nhau với hắn. Ngoài ra, chẳng có gì Thế Lữ hay Tú Mỡ phàn nàn bọn này cả. Sau Thế Lữ tách ra làm ban kịch với Đoàn Phú Tứ, Tự Lực văn đoàn vẫn ủng hộ về tinh thần. Nhưng không phải của Tự Lực văn đoàn vì Khái Hưng không đồng ý kiến.

- Còn anh?

- Tôi cũng không thích ban kịch của Thế Lữ.

- Tại sao Thế Lữ nó đả kích tôi trong Phong Hoá?

- Thế Lữ đâu có ưa anh. Anh nên nhớ rằng trong Phong Hoá, Khái Hưng và tôi không đả kích anh bao giờ nhé. Trừ những mẩu chuyện khôi hài và những tranh vẽ đùa thôi.

- Ai cũng biết" [8].

Thế Lữ đã mô tả rất kỹ con người Thạch Lam (Bách Linh) người bạn thân đã cho ông ở chung, đã chia sẻ cơm áo, đã "vận động" cho ông vào Phong Hóa. Thế Lữ vẽ một chân dung khá đặc sắc về Thạch Lam, đầy đủ tính tình, sống động, và còn cho thấy không khí tòa báo hồi đó: xin được vào "yết kiến" ông Giám đốc Nhất Linh không phải chuyện đùa! Thế Lữ còn viết bài phóng sự thứ hai Phóng bút của Lêta in trên Phong Hóa số 154 (22-9-35) số kỷ niệm ba năm Phong Hóa, tả cảnh bên trong tòa báo, dĩ nhiên là có tô điểm thêm chân dung mỗi nhân vật, tính tình, kể lại những cuộc cãi vã và dàn hoà giữa Khái Hưng Nhất Linh và đời sống hàng ngày trong tòa báo. Đó là những tư liệu quý về đời sống bên trong Tự Lực văn đoàn.

Vàng và máu

Vàng và máu, truyện hay nhất của Thế Lữ, viết trong lúc xuất thần, lời văn độc đáo sau này không thấy xuất hiện lại. Mở đầu như sau:

"Kể từ châu Kao Lâm ở phiá đông và miền bản Slay ở phiá tây mà đến, từ mạn bản Pắc đi xuống, và từ bản Hạ trở lên, cách non mười dặm chung quanh chỉ có quả núi Văn Dú là cao lớn nhất".

Sự xác định vị trí bằng tọa độ, chỉ dùng trong hàng hải, cho lính đi hành quân, phi cơ chiến đấu, tình báo… chưa từng thấy trong văn chương. Tọa độ Văn Dú làm ta giật mình. Toàn thể tác phẩm đều dùng lối văn như thế: Không có ma. Không có đầu lâu. Không cả bóng tối… Đó chính là nghệ thuật. Vàng và máu là tác phẩm kinh dị độc đáo nhất của Thế Lữ và của văn học Việt Nam. Một kiệt tác. Sự kinh dị tỏa ra từ cách viết tiếng Việt, không khí nằm trong mỗi chữ, chứ không phải do những câu văn có những chữ oan khiên, khủng khiếp, kiểu: "mỗi cảnh vật đều có một sự tích oan khiên hay khủng khiếp… tôi nghe tiếng ngọn suối ban đêm như than khóc" hay là lấy đầu lâu, sọ người ra dọa, như trong truyện Bên đường Thiên Lôi, hoặc các truyện ngắn khác của Thế Lữ.

Thế Lữ là nhà kể chuyện có tài. Ông có tài đặt tên truyện, lạ lùng, rùng rợn, lôi cuốn: Con châu chấu ma, Cái xác đuổi người, Lưỡi tầm sét, Bên đường Thiên Lôi… Nhưng Thế Lữ chỉ là người kể chuyện: Thây ma xuống thang gác là chuyện đám học trò dọa ma nhau, tuy có không khí rùng rợn do anh chủ nhà cố tình kể chuyện ma để hù các bạn.

Cái xác đuổi người (Phong Hóa số 66, 29-9-33) cũng là chuyện sinh viên nội trú dựng xác chết lên để dọa bạn.

Con châu chấu ma (Phong Hóa số 30, 13-1-33), hay hơn, tạo được không khí bí mật của trinh thám: chính thằng nhỏ phát giác xác chết, khám phá ra sự thật. Tuy kết luận hơi gượng ép, khó tin: nạn nhân ném câu liêm để đuổi con trâu, vô tình ném ngược, bị luỡi liêm cắt cổ!

Giòng máu đứt quãng (Phong Hóa số 53, 30-6-33) viết về một án mạng bí mật, không thể tìm ra thủ phạm, phải dùng cách điều tra kiểu Sherlock Holmes, để giải thích một cách "khoa học": thủ phạm là con mèo nhảy vọt qua, làm xác chết bật dậy thành quỷ nhập tràng!

Lưỡi tầm sét (Phong Hóa số 91, 30-3-34) và số 92, 7-7-34), kể chuyện một người con gái bị sét đánh lột hết quần áo (mà không chết!).

Lối viết của Thế Lữ rất khéo, rất lôi cuốn, ông biết cách kéo dài sự chờ đợi trong căng thẳng, nhưng thường làm ta thất vọng vì sự giải thích vô lý, không có gì là khoa học cả. Nhờ uy tín của Tự Lực văn đoàn, ông trở thành cây bút trinh thám có sách bán chạy nhất thời đó.

Những nhà trinh thám có tác phẩm trụ được lâu dài, như Agatha Christie hay Georges Simenon, còn là nhà văn xã hội nữa. Câu truyện án mạng của họ, không những dựa trên tình tiết ly kỳ, mà Agatha Christie còn mô tả xã hội trưởng giả, quý tộc Anh, Georges Simenon điều tra môi trường bình dân tăm tối của xã hội Pháp và Bỉ.

Tác phẩm hay nhất của Thế Lữ là Vàng và máu, trở thành một giá trị vĩnh cửu nhờ lối viết bí mật, khác thường và Thế Lữ còn là nhà thơ sáng giá nhất trong buổi bình minh của thơ mới.

Kể từ khi vào làm việc cho Phong Hóa từ số 91, Thế Lữ chọn bút hiệu Lê Ta, ký dưới các bài điểm sách, điểm báo và phóng sự. Bút hiệu này, có lẽ cảm hứng từ bức tranh Ba ông táo: Táo Ta, Táo Tây, Táo Tầu, (không ký tên, có lẽ của Nguyễn Gia Trí) in trên bìa Phong Hóa số 84 (2-2-34). Sau này chữ Lê-Ta được Thế Lữ giải thích là do chữ Lễ nghiã là thêm dấu ngã, mà ngãta, cho nên có Lê Ta, có vẻ gượng ép. Chuyện ông ngẫu hứng từ bức tranh Ba ông Táo có vẻ tự nhiên hơn.

Tên Lê Tây ông chỉ ký hai lần, dưới bài Chợ phiên Kiến An phóng sự của Lê Ta và Lê Tây (Ngày Nay số 145, 14-1-39) và Tin Hải Phòng (Bức thư tốc hành của Lê Tây gửi cho Lê Ta) (Ngày Nay số 169, 8-7-39).

Trên Phong Hóa số 72 (10-11-33) có bài thơ Đoàn lực sĩ của Nhất Chi Mai. Đó là lần đầu tiên Thế Lữ dùng lại bút hiệu Nhất Chi Mai. Bút hiệu này còn xuất hiện trên Phong Hóa hai lần nữa: trong bài Từ viện dân biểu cho đến ô tô hàng, Phong Hóa số 122 (2-11-34) và phóng sự Đi thăm mấy ngôi mả sống ở Thái Bình, Phong Hóa số 124 (16-11-34).

Khi Nhất Linh quyết định ra báo Ngày Nay, giao cho Thạch Lam làm chủ bút, Thế Lữ được cử làm việc với Thạch Lam ngay từ Ngày Nay số 1 (30-1-35). Lúc đó, ông ký lại tên Nhất Chi Mai với lời đề ở dưới: Phóng viên của Ngày Nay. Thời gian này, ông viết một số phóng sự, có hai bài hay là Buôn người (Ngày Nay từ số 2 (10-2-35) đến số 8 (16-4-35) viết về đường dây mẹ mìn bắt cóc người buôn sang Tàu ở Móng Cáy, và Ngày Nay điều tra Ăn cướp, viết chung với Trọng Lang, từ Ngày Nay số 7 (5-4-35) đến số 13 (21-5-35).

Đó là những đóng góp giá trị của Thế Lữ nhưng không mấy ai biết đến.

Cái dở của Tự Lực văn đoàn

Cái dở của Tự Lực văn đoàn là tính bè phái, mà ba cây bút trẻ Tứ Ly (Hoàng Đạo), Việt Sinh (Thạch Lam) và Lê Ta (Thế Lữ) là tiêu biểu. Hai ông anh, Khái Hưng, Nhất Linh, thường đứng ngoài, trừ những vụ phải trả lời trực tiếp những bài đánh Phong Hoá "có tầm cỡ".

Bắt đầu từ ba mục Từ nhỏ đến lớn, Từ cao đến thấp, Bàn ngang, do Tứ Ly phụ trách, đôi khi công kích cá nhân, rồi tới những bức tranh châm biếm, những lời chế giễu đùa cợt.

Từ Phong Hóa số 35 (24-2-33), có thêm mục mới Bức tranh vân cẩu do Việt Sinh [Thạch Lam] phụ trách, thỉnh thoảng gây sự, bút chiến với các báo khác. Mới đầu là đùa vui, sau sang đùa nhả, quá trớn. Dĩ nhiên là bị trả đũa, lại càng nóng máu, anh em bênh nhau, cãi cối cãi chầy, không ra thể thống gì cả. Có lần Hoàng Đạo đã đe đánh phe "đối nghịch". Thực là:

Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Nhưng tệ nhất là từ khi có các mục: Cuộc điểm sách, Cuộc điểm báo, do Lê Ta phụ trách chung với Việt Sinh.

Cách phê bình của Lê Ta rất đặc biệt: Trên Phong Hóa số 91 (30-3-34) trong bài Cuộc điểm sách, lần đầu tiên khai bút, Lê Ta, đánh cuốn văn xuôi Trên núi voi của Lưu Trọng Lư tơi bời: "Gấp sách lại, tôi còn thấy rơm rớm nước mắt: đó là vì tôi đã quá cười" và ông kết luận:"Kể không hiểu thì cả truyện lẫn văn của ông Lư không ai hiểu đứt đi rồi. Nhưng còn như yêu văn ông, thì thú thực, tôi không thể nào yêu được".

Lại cũng như thế, đối với Tchya, trong bài điểm sách trên Ngày Nay số 79 (8-10-37), ký Người Điểm Sách, nhưng đọc thì biết là của Thế Lữ, đầu bài ông phê ngay: “Thần hổ "truyện dài rùng rợn" của Tchya, các bạn đã có người đọc rồi chứ. Thật không có câu chuyên nào ngớ ngẩn bằng". Chẳng có nhà phê bình đứng đắn nào lại nhằm những cuốn sách mà mình cho là "tồi tệ" nhất, đem ra điểm sách để "giới thiệu" với độc giả. Thế Lữ làm như vậy với những nhà thơ cùng thời như Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ, Phạm Huy Thông… với những người ông ghét, và cả với những người mới làm thơ chưa có tiếng tăm gì, ông cũng tìm những cuốn thơ dở của họ đưa ra chỉ trích. Như thế sao gọi là phê bình?

Tự Lực văn đoàn mang tiếng xấu chẳng khen ai cả, phần lớn vì những bài "điểm sách"của Lê Ta.

Nhà văn, ngoài tài năng, còn phải có "đạo đức nghề nghiệp" nữa.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

thuykhue.free.fr


[1] Lê Thanh, Cuộc Phỏng vấn các nhà văn, Nxb Đổi Mới, Hà Nội, 1943, trang 134-144.

[2] Trong bài Hồi ký tự thuật của Thế Lữ do Xuân Diệu ghi, in trong cuốn Thế Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật, Hoài Việt sưu tầm và biên soạn, nxb Hội Nhà Văn, 1991, từ trang 1 đến trang 20.

[3] Có nơi ghi năm 1924, ông 17 tuổi. Con đầu lòng là đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, sinh năm 1928.

[4] Hồi ký tự thuật của Thế Lữ do Xuân Diệu ghi (sđd, trang 13).

[5] Theo Đặng Hữu Thụ, Làng Hành Thiện thời Tây học cho đến năm 1954, Quyển Thượng, tác giả tự xuất bản, Melun, Pháp, 1999, đoạn viết về Trường Mỹ thuật Đông dương, trang 146 và 151.

[6] In trên Phong Hóa số 154 (20-2-35).

[7] In trên Phong Hóa từ số 103 (29-6-1934) đến Phong Hóa số 113 (31-8-1934).

[8] Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969, trang 161.

Nguồn: Văn Việt