Friday, May 14, 2021

2021. THỤY KHUÊ Tự Lực Văn Đoàn - Văn Học Và Cách Mạng (26)

 

Ngày Nay phóng sự

Thế Lữ – Trọng Lang – Thạch Lam

Sự ra đời của Ngày Nay

Ngày Nay được quyết định ra đời cuối năm 1934, khi Phong Hóa in tới số 130 (28-12-34), vì nhiều lý do:

- Phong Hóa đang ở trong thời kỳ cực thịnh, với hai vạn độc giả [dân số lúc đó 20 triệu người][1], có đủ phương tiện tài chính để mở thêm một tờ báo mới, dưới hình thức mới: chiếu ống kính vào đời sống thực của người dân qua ngả phóng sự với hình ảnh đi kèm.

- Cùng thời điểm ấy, Nguyễn Tường Cẩm (anh Nhất Linh) về Hà Nội chữa bệnh, muốn ở lại làm báo, bỏ nghề kỹ sư canh nông thường hay phải đi xa.

- Nhất Linh giao cho Nguyễn Tường Cẩm làm Giám đốc và Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) làm Chủ bút báo Ngày Nay, với một ban biên tập trẻ: Việt Sinh (Thạch Lam), Nhất Chi Mai (Thế Lữ), Tường Bách (em út Nhất Linh) và Trọng Lang, một cây bút mới.

Ngày Nay từ số 1 đến số 15[2] do Thạch Lam quán xuyến, có hai mục đích chính:

- Phát triển thể văn phóng sự, mô tả cuộc sống hàng ngày của người dân, chủ đích làm lộ bộ mặt trái của xã hội Việt Nam thời thuộc địa, với những hình ảnh đi kèm.

Bài xã luận trên Ngày Nay số 1, ký Tự Lực Văn Đoàn, viết:

"Mục đích của Ngày Nay là làm cho các bạn biết rõ sinh hoạt của dân ta trong buổi bây giờ, về mọi phương diện, cả hình thức lẫn tinh thần (…) Chúng tôi sẽ đưa các bạn đi từ rừng đến bể, từ thành thị đến thôn quê, xem các trạng thái hiện có ở xã hội."

- Ngay từ những số đầu, Việt Sinh (Thạch Lam) và Minh Trúc (Nguyễn Tường Cẩm) đã nhiệt thành giới thiệu những thành quả của trường Mỹ thuật Đông Dương. Tờ báo là bệ phóng của Mỹ thuật và hậu thuẫn cho kế hoạch đem mỹ thuật vào đời sống của giáo sư Victor Tardieu mà chúng tôi đã trình bày trong chương Trường Mỹ thuật Đông Dương.

Trong số những cây bút đầu tiên của Ngày Nay, phải kể đến Tường Cẩm và Tường Bách, anh và em ruột Nhất Linh. Nguyễn Tường Cẩm[3], trong thời kỳ làm giám đốc Ngày Nay, đã viết một số bài ký tên Minh Trúc, như La Khê dệt lụa (phóng sự, viết về nghề dệt ở La Khê, một trong những làng đầu tiên học được nghề dệt lụa từ thời Lê sơ, nhờ 12 người Tàu di cư sang lập nghiệp truyền lại); Năm mới (xã luận, mừng xuân), Nền Mỹ thuật Việt Nam (tiểu luận) và Dân quê (xã luận, nói về đời sống khốn khổ của dân quê)[4]. Sau khi ông bỏ Ngày Nay, bút hiệu Minh Trúc cũng không thấy xuất hiện nữa.

La Khê dệt lụa của Minh Trúc, Ngày Nay số 1


Nguyễn Tường Bách, em út Nhất inh, lúc đó còn đang đi học, thỉnh thoảng có thơ văn đăng trên Phong Hóa từ trước. Trên Ngày Nay, thời kỳ đầu, viết mấy bài sau đây: Sắm tết, Gió bấc lạnh lùng, Dưới bến trên thuyền, Thủy tiên ngày TếtTục ngày tết, và ba bài phòng sự: Ngày giỗ trận… ở chùa Đồng Quang, Trên đồi Lim hội hè đinh đám, Lạng Sơn ngày hội.[5] Phóng sự của Tường Bách hơi giống lối viết tùy bút của Thạch Lam, có tích cách văn chương nhưng chưa sâu sắc, nên không để lại dấu ấn lâu dài.

Trên Ngày Nay số 2 (10-2-35) còn có phóng sự ngắn Tết của Tù của Vũ Trọng Phụng.

Nhưng báo Ngày Nay chỉ thực sự khởi sắc nhờ loạt phóng sự của Việt Sinh (Thạch Lam), Nhất Chi Mai (Thế Lữ), và nhất là của Trọng Lang, cùng với loạt phóng sự toà án Trước vành móng ngựa của Tứ Ly[6].

Nhưng Ngày Nay gặp nhiều khó khăn ngay từ đầu, trước hết về nhân sự:

Nguyễn Tường Cẩm làm giám đốc được năm số thì ngừng, có lẽ vì không thạo việc quản lý và điều khiển một tờ báo, nên ông đã trở lại nghề kỹ sư canh nông.

Ngày Nay số 13 (21-5-35) in một trang quảng cáo của Tự Lực văn đoàn với hai ý chính:

"Hết số này, Ngày Nay không ra hàng tuần nữa, sẽ ra mỗi tháng một kỳ, đóng thành tập".

"Những món đặc sắc hiện có ở Ngày Nay sẽ liệt vào Phong Hóa, để làm tờ Phong Hóa trở thành hoàn toàn, đầy đủ, cho vừa lòng các bạn của Tự Lực văn đoàn và số hai vạn độc giả ngày một tăng thêm".

Sau số 13, Ngày Nay ngừng sáu tháng. Số 14 (13-11-35) hoàn toàn thu hẹp, rất ít bài vở.

Sau số 14, Ngày Nay ngừng năm tháng. Có lời bố cáo trên Phong hóa số 151 (31-8-35): Dù in mỗi số 4, 5 nghìn số, nhưng tiền in hình ảnh đắt quá, mà không thể tăng giá bán, nên mỗi số bị lỗ vốn 1, 2 trăm đồng.

Ngày Nay số 15 (3-4-36), thu hẹp với những bút hiệu xa lạ. Sau đó ngừng.

Hai tháng sau Phong Hóa bị đóng cửa vĩnh viễn sau số 190 (5-6-36).

Hơn một tháng sau, Ngày Nay xuất hiện trở lại, với số 16 (12-7-36) và toàn bộ biên tập Phong Hóa như ta đã biết.

Phóng sựhình ảnh là hai điểm chính của Ngày Nay trong thời kỳ đầu, với ý định chụp ảnh sự lầm than của xã hội Việt Nam để in trên báo. Ý định này không kéo dài được vì tiền in tốn kém, báo lỗ, nên phải ngừng sau số 15.

Ngày Nay sống lại từ số 16, nhưng chuyển qua một giai đoạn tranh đấu khác, phóng sự không còn chỗ đúng ưu tiên như trước nữa, nhưng sự hình thành thể văn phóng sự trên báo Ngày Nay đã để lại dấu ấn lâu dài.

Nguồn gốc thể văn phóng sự

Phóng sự là một thể loại rất mới lúc bấy giờ, bắc cầu giữa thông tin và văn chương, giữa nhà văn và nhà báo, và theo Tam Lang, đang là cái mốt bên Tây tràn sang[7]. Không hiểu ở trong Nam, phóng sự đã bắt đầu với ai, từ bao giờ, còn ở ngoài Bắc, Tam Lang là người được Vũ Ngọc Phan ghi nhận như tác giả phóng sự đầu tiên.

Nhưng theo sự khảo sát của chúng tôi, bài Quang cảnh một tiệm hút thuốc phiện ở Hà Nội của Khái Hưng ký tên Thảo Thượng Phong và Trần Đỗ in trên Phong Hóa số 3 (30-6-32) và số 4 (7-7-32), mới là bài phóng sự đầu tiên.

Tam Lang (Vũ Đình Chí) viết loạt bài phóng sự Tôi kéo xe, hoàn tất tháng 6-1932, in thành sách năm 1935[8], vậy công bố sau Quang cảnh một tiệm hút thuốc phiện ở Hà Nội, nhưng vì bài của Khái Hưng ký tên Thảo Thượng Phong và in trên Phong Hóa số 3 và số 4, lúc đó chưa ai để ý, nên Vũ Ngọc Phan xếp Tam Lang là người đầu tiên viết phóng sự, cũng dễ hiểu.

Tháng 3 năm 1933, Việt Sinh [Thạch Lam] viết phóng sự Hà Nội ban đêm cùng với Tràng Khanh in trên Phong Hóa từ số 37 (10-3-33) đến số 60 (18-8-33).

Và năm tháng sau, Vũ Trọng Phụng viết phóng sự Cạm bẫy người, in trên Nhật Tân số 2 (9-8-33). Đó là những thiên phóng sự đầu tiên ở Bắc.

Phóng sự là lối viết điều tra của nhà báo, nôm na là viết chuyện người thật việc thật. Dưới thời Pháp thuộc, phóng sự có nhiệm vụ phanh phui mặt trái xã hội, còn đối với chúng ta ngày ngày nay, phóng sự cho biết đời sống thực thời ấy của những người bị gạt ra ngoài lề, mất quyền sống như một con người. Thế giới ăn chơi trụy lạc ở Hà Nội thập niên 30, nằm trong hai khu: Khâm Thiên và ngõ Sầm Công mà các nhà phóng sự, đặc biệt Trọng Lang, tìm cách vén màn lên sự thật sau cánh cửa.

Bài phóng sự đầu tiên của Khái Hưng

Quang cảnh một tiệm hút thuốc phiện ở Hà Nội, là bài viết của Khái Hưng về một tiệm hút thuốc phiện, kiêm những hoạt động ám muội khác. Mở đầu như sau:

"Một gian nhà tây hai từng trong ngõ Sầm Công đường vào đi ngoắt ngéo (…) Tầng dưới có có bốn bộ ghế ngựa cạnh sập, nước sơn dầu lâu ngày đã phai, hầu như người ta lăn lộn đã nhiều lắm thì phải. Gần chỗ cái tủ "buffet" trong để những thuốc, những sái, dầu đèn, tiêm móc đủ cả, kê một bộ ghế ngựa trên chải chiếc chiếu hoa cạp điều có cái bàn đèn thực lịch sự thực sạch sẽ. Hai bên trải đôi đệm vóc hồng điều còn mới tinh, lại có đôi gối da để gối đầu. Ngọn đèn dầu lạc trong cái chụp pha lê thắp sáng chưng xuốt đêm xuốt ngày. Cái hộp đồi mồi non non ngón chân cái lúc nào thuốc cũng sấp sỉ đầy".

Tác giả chú ý đến từng chi tiết nhỏ, ông tả đứa bé gái con ông chủ tiệm hút như sau:

"Đứa con gái độ chừng ba tuổi, tóc húi kiểu ma-ni, hai má bánh đúc trắng hồng, cổ đeo chiếc vòng vàng, mình mặc áo satin hoa thêu, phủ ngoài cái quần lục soạn trắng nõn, đi đôi giầy mang cá cao gót, đương tung tăng chạy chơi với con búp bê to tướng mới mua."

Con bé này là cái đinh của màn kịch diễn ra sau đó: nó được bố âu yếm bồng lên ngồi ở cái đệm gấm cạnh mình, đoạn ông nằm xuống hút và gọi bồi tiêm hãm nước trà, chẳng may anh ta vô ý, đánh đổ nước lên đùi con bé, nước cũng không nóng mấy, nhưng làm ướt cái quần lụa của nó "mới là ngầy"! Thế là con bé tru tréo khóc oà lên, ông chủ vội vàng đứng dậy, bế xốc con lên dỗ dành, nhưng con bé "lên cơn hờn ghê gớm, cầm con bút bê đập đôm đốp mãi vào đầu cha và chửi cha chửi mẹ thằng làm ướt cái quần đẹp của nó". Thế là loạn cả một cửa tiệm hút lịch sự, đang đông khách, tầng trên cũng đổ dồn xuống, nào những me tây, những bà phán, đang ù dở ván bài… như cái chợ vỡ. "Năm người đàn bà đổ xuống. Người đi sau rốt, lùn mà béo, mặt rỗ, mặc quần lụa trắng, ngoài mặc cái "bu-lơ-vơ", búi tóc lộn, dáng mặt hầm hầm, chẳng nói chẳng rằng, giằng sấp ngay lấy con bé ẫm tuốt lên lầu".

Cách viết phóng sự của Khái Hưng rất khác những nhà viết phóng sự sau đó và ông cũng chỉ viết có một bài này, nhưng đã cho thấy rõ lối tả chân của ông: động tác rất nhanh, lời lẽ chính xác, không sót một chi tiết nhỏ, không ba hoa, làm cho độc giả có cảm tưởng bịa đặt, điều mà nhiều nhà phóng sự mắc phải. Khái Hưng xây dựng phóng sự như một truyện ngắn, bố cục chặt chẽ, về một ổ thuốc phiện kiêm cờ bạc, đĩ điếm, sang trọng ở ngõ Sầm Công. Ông chủ tập thể, dẫn đầu, cù lần, bất lực; con bé ba tuổi, trung tâm, đáo để tuyệt mức; và bà mẹ rỗ huê đi đoạn hậu, nắm tất cả quyền bính trong tay. Tổ chức đồi trụy này, nằm trong căn nhà tây, là một toàn diện gia đình trị mà hai lãnh đạo là đàn bà, rất đúng đường lối "nữ trị" sẽ thấy trong tác phẩm của Khái Hưng sau này.

Tôi kéo xe của Tam Lang (Vũ Đính Chí)

Xe kéo là xe có hai bánh lớn, người phu đứng trước cầm hai càng xe kéo mà chạy, lúc đó chưa có cyclo. Cyclo ba bánh, người phu ngồi trên yên sau xe, đạp, đỡ vất vả hơn nhiều. Theo Tam Lang, hơn mười năm sau khi tác phẩm của ông ra đời, xe kéo bị bãi bỏ hẳn[9]. Tam Lang bắt đầu phóng sự như sau:

"- Ông cho nhà cháu xin chiếc xe.

- Mày ở đâu, tên là gì?

Soạc rộng cái mồm đầy hai hàm răng cáu bựa như những múi na, anh cai T. nới một lỗ khuy chiết thắt lưng da to – to ngang chiếc giây lưng đeo cát tút của người đi săn – tráo trợn hỏi như nhổ vào mặt người anh ta coi là lạ.

- Bẩm, cháu ở Thái Nguyên, tên là Tý"[10]

Lối mở đầu rất khéo, đã tạo được "không khí trấn áp" từ đầu, văn Tam Lang rất sống động. Nhưng ông phạm một lỗi, là ngay đầu đã mô tả tay Cai xe như một thứ cặn bã, đồ bỏ: "hai hàm răng cáu bựa như những múi na", "tráo trợn hỏi như nhổ vào mặt". Đây là nhược điểm chung của nhiều người viết văn hiện thực tả chân: Nguyễn Công Hoan bảo: viết người ác thì phải tả mặt mũi như thế nào… hoặc Vũ Trọng Phụng đổ tất cả mọi xấu xa tội ác lên đầu Nghị Hách. Lối tả này ta gọi là phóng họa, Pháp gọi là caricature, rất ít tính nghệ thuật.

Cái lầm thứ hai của Tam Lang là để cho có vẻ "thành thực", ngay chương đầu, ông kể đã được Bùi Xuân Học, chủ nhiệm Ngọ Báo, gợi ý nên đi làm phóng sự như các nhà báo bên Tây, thường sang Hồng Kông, Thượng Hải làm phóng sự. Tam Lang bèn đóng vai một anh phu xe đi kiếm việc, đến gặp ông Cai, v.v. "Sự thật" này hơi khó tin, bởi vì một "công tử Hà thành" như Tam Lang, chưa bao giờ tập kéo xe, mà chỉ một thoáng đã biến thành "cu-li" kéo xe chở một ông Cai Tây bự, chạy một cuốc dài từ Đồn Thủy lên Yên Phụ!

Tôi ké xe là tác phẩm rất mới thời đó, người đọc dễ tính không thấy những sơ hở và họ thích vì tác giả mô tả được tất cả những cái "dã man tàn bạo" của tên Cai xe, mụ vợ nặc nô cũng ác như chồng và sự bần tiện của thằng cha Cai Tây mập ú, bắt chẹt phu xe, trả rẻ… đúng như ý họ muốn. Đó là cách viết của một số tác giả hiện thực xã hội tả chân thời ấy, nhiều tính trào phúng, phóng đại, nhưng ít sự thật, mà lại rất được ưa chuộng.

Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng

Hơn một năm sau, Vũ Trọng Phụng, viết Cạm bẫy người, ký Thiên Hư, đăng lần đầu trên báo Nhật Tân số 2 (9-8-33), được Annam xuất bản cục (nhà xuất bản đầu tiên của Tự Lực văn đoàn) in thành sách năm 1934.

Cạm bẫy người kể lại câu chuyện do một người bạn – là kẻ đánh lừa cha – thuật lại: vì có ông bố keo kiệt nhưng thích cờ bạc, y bèn dẫn về nhà một tay cờ bạc bịp, tay này lột tiền của ông bố rồi chia cho y. Cờ bạc bịp có nhiều trường phái mà lừa đảo cũng vậy… Cạm bẫy người là tác phẩm đầu, Vũ Trọng Phụng viết khá cẩn thận, tôn trọng sự thật, có lẽ vì thế mà được Tự Lực văn đoàn in. Nhưng Cạm bẫy người chưa phải là một phóng sự mà chỉ là câu chuyện nghe kể lại. Chất phóng sự rõ hơn, trong hai tập sau: Kỹ nghệ lấy TâyCơm thầy cơm cô[11]. Kỹ nghệ lấy Tây, ghi lại lời tâm sự của những người đàn bà lấy Tây kể về hoàn cảnh éo le của mình. Cơm thầy cơm cô mới đích thực là phóng sự, bởi vì tác giả đã nhập hẳn vào môi trường khảo sát.

Cơm thầy cơm cô, viết về "thế giới con ở" mà Vũ Trọng Phụng trà trộn vào để nghe chúng kể lại những chuyện tồi tệ của chủ. Trước hết ông giả làm người đi tìm việc, được mụ mối dẫn đến trọ ở một hàng cơm:

"Tôi không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào, làm gì. Các ngài chỉ biết rằng một hàng cơm cũng như nghìn vạn hàng cơm khác, nghiã là khi ta mới bước chân vào thì bổn phận ta là thấy lập tức buồn nôn. Nào là mùi cá mè, mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi lòng lợn, lòng bò, mùi mẻ chua, mùi dưa khú… Thôi thì đủ một trăm nghìn thứ mùi khó chịu, mà lạ nhất là nó không hề bận tâm đến hai lỗ mũi của bà chủ luôn luôn nắm trong tay cái quạt nan, cởi trần trùng trục và thỉnh thoảng lại cao hứng vén quần lên đến bẹn và gãi sồn sột, tự nhiên như đàn ông chúng ta"[12].

Đoạn văn này khá tiêu biểu cho lối viết của Vũ Trọng Phụng: khiêu khích và phóng đại. Hàng cơm ông tả khi ta mới bước chân vào thì bổn phận ta là thấy lập tức buồn nôn, vì những mùi cá mè, mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi lòng lợn, lòng bò, mùi mẻ chua, mùi dưa khú… mà nó lại giống như nghìn vạn hàng cơm khác. Vậy tất cả những hàng cơm ở Hà Nội đều như thế ư? Hai chữ "bổn phận" có nghiã gì? Lại còn bà chủ cởi trần trùng trục và thỉnh thoảng lại cao hứng vén quần lên đến bẹn và gãi sồn sột nữa: Bạn đã thấy ở nơi nào có hàng cơm với mụ chủ quán cởi trần trùng trục ngồi tiếp khách? Rồi phóng viên được đưa vào nhà trong, lên gác, vẫn lối tả chân sống sượng, viết phứa, sản xuất ra những câu: "Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái, phía bên này"[13].

Vũ Trọng Phụng đẩy xa sự phóng đại gấp mấy lần Tam Lang, cho nên, dù ông có biệt tài viết rất sống động, lôi cuốn, có những đoạn hay, nhưng những câu văn như trên đã tạo ra cảm giác một thứ hoạt họa tiếu lâm tàn ác hơn là một thiên điều tra về cảnh lầm than của kiếp người.

Theo Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Trọng Phụng là người sống nghiêm túc, đạo đức, chẳng bao giờ đi chơi đêm, vậy mà ông lại viết những phóng sự "kinh hồn" như Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy TâyCơm thầy cơm cô, dĩ nhiên là phải hư cấu, mà viết rất nhanh, không kịp đọc lại, nên đã có nhiều chữ gây tai hại cho tác phẩm. Tuy nhiên ông đã tạo được một "trường phái phóng họa" mà sau này Hoàng Hải Thủy là môn đệ trung thành.

Phóng sự của Nhất Chi Mai (Thế Lữ)

Trên Ngày Nay, phóng sự do ba người đảm nhiệm: Việt Sinh (Thạch Lam), Nhất Chi Mai (Thế Lữ) và Trọng Lang, một cây bút mới. Cả ba đều có lối viết khác hẳn lối hư cấu của Tam Lang, Vũ Trọng Phụng.

Thế Lữ, dùng lại bút hiệu Nhất Chi Mai, đã từng ký trên Phong Hóa, năm 1932[14]. Bẵng đi hai năm, ông không dùng bút hiệu này nữa[15]. Khi được điều động sang Ngày Nay, trên Phong Hóa số 125 (23-11-34), Thế Lữ có làm một bài thơ trả lời độc giả hỏi: Thế Lữ ở đâu mà không thấy có mặt trên Phong Hóa? Cũng kể từ lúc này, ngoài bút hiệu Thế Lữ, ông còn lấy bút hiệu Nhất Chi Mai để trình làng trên Ngày Nay như một tác giả mới, với lối viết phóng sự sinh động, lôi cuốn, tại Hải Phòng, nơi gia đình ông cư ngụ.

Thế Lữ bắt đầu với bài phóng sự Một cái chợ người giữa nơi thành thị, ký tên Nhất Chi Mai, trên Ngày Nay số 1 (30-1-35). Tiếp đó là loạt phóng sự Buôn người[16], Tong-Hin,[17] và loạt bài Ngày Nay điều tra Ăn cướp của Trọng Lang và Thế Lữ[18]. Cũng trên Ngày Nay, Thế Lữ bắt đầu loạt tiểu thuyết trinh thám Lê Phong phóng viên trinh thám[19].

Một cái chợ người giữa nơi thành thị của Nhất Chi Mai, mô tả cảnh "chợ người" ở Hải Phòng, là nơi những người đi tìm việc tụ tập, tiếp xúc với các mụ mối chuyên kiếm việc cho kẻ thất nghiệp để lấy hoa hồng. Giọng phóng sự của Thế Lữ như sau:

"Haiphong, một buổi sáng mùa đông, trên trời mây kéo đen ngòm; lác đác mấy hạt mưa lạnh buốt đến xương.

Thu mình trong chiếc áo cao-xu, tôi rảo bước trên bờ hè phố Bonnal. Bỗng có tiếng gọi giọng lanh lảnh:

- Ông tìm người làm?

Dừng bước, thấy trước mặt tôi, trên bờ hè, sế [xế] vườn hoa bãi sông Lấp, bầy ra một cảnh tượng khiến ai thấy cũng phải chú ý.

Một bọn người vừa đàn ông, vừa đàn bà, trẻ có, già có, quần áo rách rưới, co ro, sắp hàng ngồi thành một rãy. Những khuôn mặt hốc hác, những da vàng ỏng, những con mắt sâu hoắm".

Giọng Thế Lữ thành thật, nên đã chiếm được lòng tin của độc giả. Một cái chợ người giữa nơi thành thị chỉ là bài mở đầu cho chủ đề Buôn người.

Phóng sự Buôn người, Ngày Nay số 2

Buôn người là phóng sự dài và chính của Thế Lữ, đăng trên Ngày Nay từ số 2 đến số 8, cho ta thấy lại văn tài tác giả Vàng và máu, nhất là ở những đoạn mô tả bọn lái buôn hành động trong đêm tối:

"Trên mặt nước đen như mực, chiếc thuyền không đèn, không đóm cứ việc đè sóng vùn vụt chạy như bay. Một tên khách lực lưỡng, vẻ mặt dữ tợn, mắt sáng quắc như mắt vọ, lạnh lùng ngồi lái.

Tuy là đường thủy mà lại khúc khuỷu khó đi vì đá mọc ngầm dưới biển rất nhiều.

Thuộc lòng từng tảng đá, tên lái khách thản nhiên cho thuyền chạy quanh co, săm săm đâm vào trong đêm tối…

Những tiếng gió vi vút, gầm thét trong hang, những tiếng hò não nuột của lũ chim đêm, những tiếng sóng dạt dào, những cái bóng đen lù lù của đàn cá mập bơi theo, những cảnh tượng thâm u, sầu thảm của trời nước, một đêm không có trăng sao, không đủ làm nao lòng bọn "lái thán", bọn khách chuyên nghề chở người từ Haiphong ra Moncay.

Bọn này toàn là giặc bể trở về. Trên lương tâm mỗi đứa đếm ra cũng được dăm cái án mạng gớm ghê.

Bọn "lái thán" công ty với bọn "mẹ mìn" chở những món hàng người qua Moncay, về nẻo Đông Hưng. Mỗi chuyến đi thoát, bọn "lái thán" cũng được trăm bạc hay hơn tiền hoa hồng".

(Ngày Nay số 2, 10-2-35).

Văn trong Buôn người có nhiều đoạn tuyệt hay như thế, nên đã lôi cuốn độc giả, khiến họ dù có nghi ngờ đôi chút về "sự thực", cũng bỏ qua, vì cho rằng nhà văn có quyền hư cấu cảnh vật, miễn là nội dung buôn người có thật, do Thế Lữ điều tra chứ không bịa đặt.

Ngày Nay số 3, vẫn trong Buôn người, tác giả chuyển sang chuyện mẹ mìn. Theo ông, năm 1929, năm mẹ mìn. Chuyện mẹ mìn dẫn đến chuyện người Tàu giấu của; tất những chi tiết ly kỳ này, dĩ nhiên tác giả không trông thấy mà chỉ nghe kể lại: họ mua một thiếu nữ đồng trinh, chờ lúc trăng lặn, làm lễ chôn sống người con gái Annam cùng với của cải châu báu để làm thần giữ của, tục này có từ thời Tô Định, Liễu Thăng. Còn ngày nay [1935] người ta dùng mẹ mìn trong việc "hiện đại" hơn: bán người cho bọn mộ phu đi Tân thế giới. Trước tệ nạn này, dân chúng đứng lên lên trừ mẹ mìn, nghiã là cứ thấy một "con mẹ" lanh lẹ mon men vào chợ, lân la hỏi chuyện là người ta xông vào đánh "cho chết bọn mẹ mìn". Sau việc này và việc tay tổ mộ phu Bazin bị ám sát ở chợ Hôm, hoạt động mẹ mìnbuôn người mới lắng xuống. Tình cờ một hôm phóng viên Nhất Chi Mai gặp được cụ Bát, kể lại: Con gái cụ bị bắt cóc sang Tàu lúc 12 tuổi, bán cho một nhà giầu làm con ở. Năm 20 tuổi, cô gái gặp được một người [Tàu] tốt đưa cô trở về với gia đình.

Cũng có trường hợp không đi thoát, vì thuyền gặp bão đánh giạt vào đảo, bị nhà đoan vây bắt với cả "thuyền hàng" gồm mười người phụ nữ. Hoặc trường hợp bi thảm của một đứa nhỏ bị bắt, bán làm con ở, sau lớn lên làm vợ chung cho chủ, là ba tên lái lợn.

Phóng sự Buôn người để lại dấu ấn hãi hùng về một thời ở Bắc: trẻ con nào lớn lên trong thời ấy, nghe thấy hai tiếng mẹ mìn là sợ mất viá. Ngày nay đọc lại phóng sự của Thế Lữ Nhất Chi Mai, ta mới thấy rõ cảnh mẹ mìn bắt cóc ấy như thế nào.

Phóng sự Tong-Hin quê hương của Trần Tế Đường, không có gì đặc biệt: Tong Hin là một làng nhỏ bên Tàu sát biên giới. Từ Moncay sang Tong Hin phải qua cái cầu nhỏ dài 100 mét, bắc ngang sông Đông Hưng. Tong Hin là quê hương của Trần Thế Đường, Tổng đốc Quảng Đông. Sang Tong Hin phóng viên gặp kỹ nữ Xuân Đào, một người đẹp, hát hay nhưng số phận long đong.

Ngày Nay điều tra ăn cướp của Trọng Lang và Thế Lữ, đăng trên Ngày Nay từ số 6 đến số 13, là một phóng sự thành công. Hai phóng viên đi sâu vào những tổ chức ăn cướp ở thôn quê. Người dân bị cướp thường trực, nhưng không có vũ khí chống lại, chính quyền làm lơ.

"Tiếng chó sủa, tiếng tù và, tiếng trống ngũ liên và những tiếng cầu cứu kêu thất thanh trong đêm tối! Dân quê luôn luôn sống trong sự sợ hãi: sợ cướp và sợ bao nhiêu thứ khác nữa". Đám cướp được tổ chức rất dễ dàng:

"Cứ một bọn hai mươi người biết cách xếp đặt hẳn hòi thì đến bất cứ nhà nào ở thôn quê cũng ăn cướp được" đó là lời tuyên bố đáng sợ của của một tên tướng cướp".

Nhờ khôn khéo và may mắn, phóng viên được tướng cướp tin cậy, cho dự một vụ đánh cướp thực sự và "trả lời phỏng vấn" nữa, tiết lộ mánh lới khảo của, cách tháo chạy như thế nào, sự trừng phạt kẻ phản bội ra sao, làng cướp cũng có kỷ luật sắt như luật mafia sau này, không ai dám tố cáo lẫn nhau, cho nên những kẻ nhúng vào tội ác, giết người, vẫn ở ngoài vòng pháp luật, cho đến khi tự ý ngừng hoạt động, về hưu, làm người hiền lành như một ông đồ!

Kèm chuyện ăn cướp, hai tác giả còn mô tả những bức tranh quê sống động trong ngày phiên chợ, cảnh đấu đô vật hấp dẫn, những lý luận đặc thù của xã hội bất lương, cả đến những người dân "vô tội", cũng không chỉ là đáng thương, là nạn nhân mà còn, một cách nào đó, đã "đóng góp" vào tội ác. Ngày Nay điều tra ăn cướp là một phóng sự có giá trị sâu sắc, nhưng rất tiếc, không được mấy ai chú ý.

Phóng sự của Trọng Lang (Trần Tán Cửu)

Trọng Lang[20] là cây bút chính về phóng sự của Ngày Nay. Trọng Lang vượt trội Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, vì tính chất thành thật, nhân đạo và nghệ thuật tả chân trong tác phẩm của ông. Ông nói thẳng mình là nhà báo được trả tiền đi làm phóng sự.

Trọng Lang xuất hiện lần đầu trên Ngày Nay số 1[21] với phóng sự Lạc vào động bà chúa Hàng Bạc, tả lại cái động của bà Bé Tý, nhân vật nổi tiếng ở Hà thành. Lúc ấy ông mới 19 tuổi, gửi thử bài viết đầu tiên cho Ngày Nay, không ngờ được đăng ngay.

Bà chúa Hàng Bạc người Tầu lai Tây, sống bên Annam, và động của bà – ngày chủ nhật thỉnh thoảng mở cửa cho khách vào xem – có đủ mọi trò hấp dẫn, có ảo thuật, có đội vũ nhạc, có nhẩy fox Tây theo điệu đàn Tàu; có hát cô đầu lối Tàu, có lên đồng… nghĩa là không thiếu trò gì cả. Với bài phóng sự này, Trọng Lang xác định giọng văn đặc biệt của mình, ông giới thiệu động bà chúa Hàng Bạc như thế này: "Ra Hà Nội, một ông Lý Toét ít ra phải được xem hai cái kỳ quan: Vườn bách thú và nhà bà Bé-Tý". Và ông đã mô tả quang cảnh và không khí "động tiên" ấy như một màn xiệc sống, đủ trò lai căng mà ta có thể mường tượng được.

Tiếp đến Trong làng chạy[22] là một thiên phóng sự sống động về thế giới trộm cắp, ông bắt đầu như thế này:

"Chợ Đồng Xuân, một buổi sáng… Lấy chỗ những con chó cụp đuôi đứng liếm lá gói bánh hay đống rác ở các chợ nhà quê, hai thằng bé đứng "hít" một mẹt bún chả.

Hai tay khoanh để sau gáy, chúng thỉnh thoảng nuốt nước rãi.

Người gầy, quần áo rách. Người ta không hiểu hai bộ tã ấy còn duyên nợ gì với hai cái thân ốm yếu ấy mà chưa rời."

Tất cả ngụ trong cách tả và sắp đặt: hai thằng bé – sắp giật gói bánh ga tô – chiếm chỗ con chó cụp đuôi liếm lá, đứng hít mẹt bún chả, nuốt nước rãi, không hiểu hai bộ tã ấy còn duyên nợ gì với hai cái thân ốm yếu ấy mà chưa rời. Lối tả lạnh lùng đến "vô nhân" như thế, mà lại vô cùng nhân đạo thương tâm trong chiều sâu, chưa mấy nhà văn đạt được, khác hẳn với lời văn thô và miệt thị "Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn ngang như lợn cả" của Vũ Trọng Phụng mà ta vừa thấy ở trên. Trọng Lang đưa ta vào thế giới ăn cắp, từ tỉnh về quê, đủ mọi hoàn cảnh, tình thế, đủ loại thủ đoạn, mánh khoé, khác nhau. Ông đã tạo ra bức tranh bi hài tột độ về xã hội đạo chích đương thời.

Trong phóng sự Đàn bà hút thuộc phiện[23] ông chiếu ánh sáng vào những đàn bà nghiện, sang hèn khác nhau, trong những tình huống khác nhau, đặc biệt những người thường xuyên nằm đét trong các tiệm hút tồi tàn, chỉ ngóc đầu lên để đi khách, có tiền hút tiếp, họ chính là hình ảnh của địa ngục trong con người: tự mình đưa mình xuống âm ty.

Phóng sự Đời bí mật của sư vãi[24] kém Trong làng chạy, bởi tác giả có thành kiến với giới tu hành, ông cho rằng chín mươi phần trăm người đi tu thuộc vào bốn loại sau đây: 1-Trong tử vi có chữ "tu hành". 2- Mồ côi cha mẹ hoặc lười biếng. 3- Muốn chết nhưng sợ đau không dám tự tử. 4- Cha là sư, mẹ là vãi. Với một thành kiến chắc nịch như thế, ông chỉ tạo ra hoặc nghe lại những mẩu chuyện về các loại sư hổ mang, hoặc những chi tiết ly kỳ về cuộc đời xác thịt của một sư bà… rồi phóng ra mà không điều tra chiều sâu của cuộc sống trụy lạc – nếu có thật – của giới tu hành. Phóng sự Gà chọi[25] hay hơn, tác giả tìm hiểu khá sâu về thế giới chơi gà chọi, đưa ra những trang phóng sự thật sống động. Phóng sự Đồng bóng[26]cũng tìm hiểu cặn kẽ về thế giới lên đồng.

Nhưng tác phẩm chính ông là phóng sự dài Hà Nội lầm than, đăng trên Ngày Nay năm 1937[27] về cuộc sống bùn lầy của đám phụ nữ giang hồ (gái nhảy, cô đầu, gái điếm) và của phường ăn mày kiêm ăn trộm. Tất cả Hà Nội lầm than đều là thần tử của thuốc phiện, trong hai khu Sầm Công và Khâm Thiên.

Làm dân[28] viết về tình trạng tồi tệ, hủ lậu, dốt nát của một làng nhỏ ở ngoại ô mà những người con gái nhẹ dạ, chỉ mơ được ra Hà Nội, đã sa vào vòng trụy lạc. Làm tiền[29] viết về những thủ pháp làm tiền quỷ quyệt của đủ mọi hạng người.

Đói[30] là phóng sự mà cũng là tài liệu văn học sớm nhất về nạn đói năm Ất Dậu ở miền Bắc, mô tả cảnh chết đói kinh hoàng trên đường phố, của những người dân quê tiến về Hà Nội: "chúng cháu cả làng chết tiệt mất cả" nên rủ nhau đi bộ liều lên đây "vì nghe họ bảo rằng ở Hà Nội thì cứ nhặt hạt rơi hạt vãi, cứ khóc một tiếng, vái một vái, là đủ no cho cả đống rồi". "Chín người, mà là chín bức tượng gầy đen kịt. Những người lớn thì đã vượt tuổi, sớm đến cõi chết: nghiã là họ đã mắt trũng, răng hô, lêu đêu, ghê gớm như ma quỷ cả rồi. Những đứa bé thì như trở lại thời sơ sinh: nghiã là mắt tròn xoe, má răn thành sóng đến tận mang tai, chúng bé rúm lại, như những khỉ con mới đẻ".

Sống sót[31], đúng như lời giới thiệu của tác giả: "Thiên phóng sự này tả tình cảnh của bọn thực dân Pháp sống sót lại sau đêm mùng 9,[9-3-1945, ngày Nhật đảo chính Pháp] của tụi Việt gian đã sống sau gót thực dân, của lũ "me" lỡ bước, của những kẻ vong bản đã nhập Pháp tịch."

Trọng Lang và Nguyên Hồng là hai nhà văn lớn do Tự Lực văn đoàn khám phá.

Trong mười 10 năm, từ 1935 đến 1945, Trọng Lang, một mình, trên Ngày Nay, đã tìm cách phơi bày tất cả bộ mặt tối tăm của xã hội thực dân, qua ngả phóng sự.

Phóng sự của Trọng Lang về tình trạng lầm than sa đọa ở Hà Nội, tiểu thuyết hiện thực xã hội của Trần Tiêu về đời sống tăm tối của dân quê, và tiểu thuyết phóng sự của Nguyễn Hồng về xã hội trộm cắp, là ba mặt công phá khác của Ngày Nay, ngoài tiểu thuyết Khái Hưng, Nhất Linh, và truyện ngắn Thạch Lam.

Hà Nội lầm than

Hà Nội lầm than là tác phẩm chính của Trọng Lang, đăng trên Ngày Nay năm 1937[32], với bốn đề tài: Gái nhảy, Cô đầu, Nhà thổĂn mày.

Tiệm khiêu vũ, khi đứng ngoài, tiếng nhạc vọng ra cho ta cảm giác quyến rũ, êm dịu, mơ màng, cực kỳ thanh lịch:

"Ngồi nhìn, từ 9 giở cho tới nửa đêm, những cặp "nhảy" dịu dàng và trai trẻ, giữa tiếng cười, hoa và giây giấy, giữa những điệu nhạc mê hồn, người ta yên chí rằng nghề "nhảy" là một nghề nhã nhặn, kiếm được, cho các cô nhảy tiền và chồng rất dễ.

Nhưng từ mười hai giờ đêm đến ba giờ sáng, hay đến lúc bình minh, lúc phấn sáp đã trôi qua những làn da xám nhợt, người ta mới thấy rõ cái bã của cuộc vui, bộ mặt thực của nghề nhảy, nó cũng gớm chết như bộ mặt xanh vàng, hết phấn của các cô nhảy.

Rồi, nhìn thấy các cô nặng nề, khổ sở, cố lê theo mấy ông lực lưỡng, lắc trên lắc dưới như một thằng múa rối, người ta tưởng tượng ngay ra rằng các cô là "cu-li nhảy" chứ không phải là gái nhảy nữa".

"Một lát nữa tôi thấy cô nhảy tăng gô với khách, lưng cong lên, cầm cô tựa vào vai khách, há mồm ra mà… ngủ như thường". (Ngày Nay. 50)

Trọng Lang đã vào bên trong tiệm nhẩy, đã nhìn thấy cái bã của cuộc vui, đã thấy những "cu-li" nhẩy, bởi họ đúng là phu nhảy, loại phu phen hạng bét, hàng đêm phải gánh đủ mọi hạng người, hôi hám, say khướt, thô tục, không biết nhảy, giẫm lên chân. Bằng mọi giá, cu-li nhảy phải kéo cho được những tạ thịt này đi theo điệu nhạc, có cô bị giẫm nát cả mấy ngón chân, phải vào bệnh viện. Một đời sống quay cuồng, trông bề ngoài đẹp như tranh, mơ như luân vũ, nhưng bên trong là những cái xác không hồn, nhảy đến tan thân, rách áo, gãy giày, hai chân rã rời muốn qụy, để nuôi một thân hình không còn sinh lực, không còn sức sống.

Cô đầu cũng không khá hơn. Đây là cảnh năm, sáu cô đầu, đội khăn trắng, tiếp khách:

"- Em đã nhất định không chịu để tang. Nhưng mà bà ấy bắt phải đội khăn trắng.

- Đội khăn trắng thì họ bảo mình cóc có tiền mua khăn nhung, phải giả có trở để đội khăn trắng, rẻ tiền, giặt được.

- Dù mình có để trở bố mình đấy, họ cũng bảo là mình để trở ông Bôn-be."

Một cô đầu kiêm nữ sĩ than:

"- Chỉ vì cái con phải gió, con X. kia! Đưa cho nó một đồng để nó mua thuốc phiện dấm thanh về hai đứa uống. Nó lại đi mua có năm hào!"

Nên cô mới còn ngồi đây. Con phải gió đã đi thoát, nó chẳng nghe được lời cô trách.

"Em có chết, thiên họ tất họ sẽ nói: chẳng chết những đứa đó thì chết đứa nào! Nhà báo sẽ đăng là chết vì tình! Các anh may ra sẽ được một câu điếu: Thế à! và một cái tắc lưỡi, như gọi chó!"

Những nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… thường tụ họp bên bàn đèn, để mơ nàng tiên nâu, uống từng âm thanh "tom chát", có đọc những dòng này, chắc không khỏi "chạnh lòng". Trọng Lang đã ép trọn đắng cay, tàn ác, trong vài câu ngắn ngủi, nhỏ xuống những số phận không ai tin, không ai thương: dù mình có để tang bố, chúng nó cũng không tin, thì tang làm gì? Mà cái con phải gió bảo đi mua thuốc phiện dấm thanh, lại còn hà tiện, cho chết một mình đáng kiếp! Nhưng không hề thấy xác. Chỉ thấy mùi âm khí. Còn em, một cô đầu-văn sĩ, em có chết, chắc cũng chỉ được các anh đồng nghiệp tặng cho một cái tặc lưỡi như gọi chó là cùng! Kinh khủng. Bái phục. Sao lại có ngòi bút gói ghém được toàn diện cái ai oán trong tiếng tom chát Khâm Thiên đến thế.

Nhà thổ còn ghê hơn. Bởi "tôi quyết rằng không ai dám nhận đã đi vào… "nhà thổ" dù chỉ một lần nhỏ thôi, trong đời mình. Là vì nhà thổ là chỗ ô uế cực kỳ, một chỗ để chứng rằng tâm hồn và xác thịt của một đám đàn bà trụy lạc đã thối nát đến bực nào…

Tôi đã đàng hoàng bước vào nhà thổ với ngòi bút và lòng thương."

Đấy là nói cho oai, chứ chàng phóng viên này đến ngõ Sầm Công đi qua một căn nhà thổ bốn bận mà không dám vào, dù bị chế giễu, mời mọc, đủ kiểu:

"- Giời mưa, ới hỡi giời mưa:

Có thằng thích chết mà chưa dám vào!"

Một mụ già mắng át con bé hát láo, thì thào vào tai chàng:

"- Chả có ai cả đâu! Mời cậu vào đi!"

Bấy giờ chàng mới nghiệm thấy "thì ra bao nhiêu ngày tháng sống chung với "kẻ cướp" và "kẻ cắp" dạo trước, vẫn chưa gây cho tôi đủ can đảm để vào "nhà thổ". Rồi chàng cũng thuê được hai quân sư nghiện dẫn chàng vượt cửa khẩu vào vùng đất cấm:

"Tôi đã được nghe những tiếng cười, khóc, điên dại và ghê gớm của một đám người hãy còn tỉnh để nhớ rằng họ đã từng là… "đàn bà". Tôi đã thấy hết cả các thứ bẩn thỉu, cái vô nghĩa trong kiếp sống ở một người đàn bà, khi người đó đã không còn gì là "đàn bà" nữa".

Nhưng vẫn có "một mụ" phân biệt nghề mình với nghề cô đầu:

"- Chuyện! Cô đầu khác, mà nhà thổ khác. Cô đầu khổ sở bỏ mẹ đi… Thằng nào cũng phải tiếp. Đang ngủ nó dựng cổ dậy, nó có bệnh nó đổ cho cũng không biết nữa. Nó hành hạ không kêu vào đâu được, chủ nó đánh đập như con chó cũng phải chịu. Ăn thì ăn uống khổ sở. Thử hỏi tụi cô đầu N.7 xem có sướng hơn chúng tôi chưa?

- Nhưng mà ở nhà chứa nghe nói: "không chịu tiếp khách, mụ chủ nó lột truồng ra, lấy tóc buộc vào cột mà đánh, lại có lúc nó buộc phải tiếp nhiều khách quá trong một đêm, thì phải nắm lấy chầy mà cán bụng. Hai việc đó sướng cái gì?"

Mụ lại phải giải thích: bây giờ không làm thế được, chủ hành hạ thì đã có phép (lên khóc lóc mách bà đầm lục xì). Còn khách hàng lôi thôi, tống ra cửa (bảo y có bệnh, cách khám đã có quan đốc lục-xì dạy cho rồi).

Nhà thổ còn có phép trị bọn khách quý. Một lũ khách gian, tiếng lóng là càn long, sai hai đứa đi mặc cả trước, rồi dẫn "con Oanh" vào xăm[33]. Oanh khét tiếng anh chị, bao nhiêu thằng nó cũng thầu hết. Hai thằng vào trước, mở hé cửa sau cho bọn càn long vào lậu. Oanh cho cả bọn 10 thằng vào xăm, đoạn nó tự thoát y rồi ra lệnh: các anh đông quá mà chỉ thả ra có một đồng rưỡi, lại mặc cả suốt đêm cho hai người. Thôi thì đã đến đây, chả lẽ lại về không, vậy anh nào muốn ở lại, phải lập tức cởi hết quần áo ra. Nhìn tấm thân hộ pháp của con Oanh, chín thằng mất viá, líu ríu xin rút lui, chỉ một thằng trẻ chuyên môn tắm truồng, can trường ở lại. Thế là mất toi một đồng rưỡi bạc. Giá hạng bét chỉ có hai hào.

Nhà thổ là một xã hội đủ mọi hạng người: từ những công tử đẹp trai con quan lỡ bước, mặt xanh rớt, hành nghề cho Tây, đến những người đàn bà "không còn là đàn bà" mà là những "đống thịt trâu xám ngoét", ngửa ra trên bàn lục xì cho quan khám, nghe chửi, hoặc nằm chịu trận trong ngõ Sầm Công hôi hám, để nuôi thằng chồng nghiện hút, mắc bệnh lậu, đánh vợ tàn nhẫn. Đó là mặt trái của Hà Thành thanh lịch áo dài Lemur Cát Tường, và là thành quả của chế độ nha phiến bảo hộ.

Chưa đủ, Trọng Lang còn đào sâu hơn: phần thứ tư của phóng sự: Trong hang tối, chứa chất những cuộc đời tăm tối nhất trong ngõ Sầm Công và Khâm Thiên. Là loại người đã ở trong bùn, ăn gì cũng không chết: ngốn thịt gà toi, thịt trâu chết, ở với lợn, mà lại sợ vào nhà thương, con lên kinh sài, thì mua hương "cửu trùng" cúng, hôm sau thấy bảo nó hỏng đêm qua rồi, chỉ chép miệng: "Ối chào! Trẻ con ấy mà!". Trẻ chết có đáng gì. Lại có kẻ hành nghề "chôn người". Bởi vì người lớn hay trẻ con chết mà gia đình ngại lôi thôi, không muốn dính, vứt xác ra đường; hoặc ma cà bông, chết nghiện, vô thừa nhận… thì đã có ông chôn người lượm về chôn tuốt. Lại còn phải kể hạng người giết… người, là những bà mụ, đỡ đẻ bằng mảnh chai, mảnh sắt rỉ, bằng lá ngón; lang băm giết người vì cho uống bùa ngải; lang Mường (giả mường) bán bùa đeo rốn, cam đoan sau trăm ngày sẽ có mang.

Nhưng đây mới là cái đáy: trong Một "tổ cốc" (tổ ăn mày, ăn cắp, nghiện) ở phố S.C, họ nuôi chuột cống làm bồi tiêm, nuôi mèo luyện nghề ăn cắp. Mèo, chuột, đi ăn cắp thuốc tha về, nghiện nặng như chủ, sau mỗi "vụ", chúng được thưởng, hít khói thuốc phiện.

Một ông ăn mày kiêm ăn trộm, nguyên gốc quan Thừa kiêm thi sĩ, ngâm:

Ngàn năm văn vật đất Thăng Long

Thuốc phiện là đây có phải không?

Bởi vì, "nếu chỉ kiếm được có hai Bảo đại, tức là hai "con" thì đành phải uống tạm một bát nước "cam lồ" nghiã là nước canh nấu bằng dẻ lau bàn đèn, các thứ bẩn thỉu của bàn đèn, có đá hơi thuốc phiện.

- Nếu không kiếm được một trinh nào?

- Thì… như thường lệ! Nghiã là nổi cơn ho hen lên, rồi nằm chết rũ một xó hè nào đó…"[34]

Ai lại muốn chết?

Sự xuống cấp từ người xuống dưới người là nhờ thuốc phiện, nguồn thu nhập lớn lao mà nhà nước bảo hộ độc quyền khai thác, cho phép dân dùng không hạn chế.

Tệ nạn nha phiến, vua Gia Long đã thấy, nên từ năm 1802, vua đã cấm người Anh vào đất Việt, cấm luôn người Pháp, để tránh ganh tỵ. Vua Minh Mạng càng đề phòng hơn, chuẩn bị kỹ càng về binh bị, trong các buổi họp cơ mật, vua rất quan ngại vấn đề nha phiến và việc người Âu xin vào "buôn bán", vua đã thấy Lâm Tắc Từ phải đối phó với thuốc phiện Anh trồng ở Ấn Độ đem lậu vào Trung Quốc, vua tiên đoán nhà Thanh sẽ thất bại trong chiến tranh nha phiến (1839-1842). Đầu năm 1841 vua băng hà. Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều cấm ngặt dân hút thuốc phiện. Nhưng từ khi Pháp đổi nền bảo hộ thành nền đô hộ trên toàn lãnh thổ, thuốc phiện công khai tàn phá từ quan đến dân, bởi vì nó là một trong những nguồn lợi chính của mẫu quốc.

Hai cường quốc Anh Pháp đã thành công trong việc đầu độc hóa hơn nửa Á Châu bằng nha phiến, vậy mà vẫn còn có người Việt ngây thơ tin rằng, vì các vua Nguyễn "bế quan tỏa cảng", không để cho người Pháp vào "buôn bán", lại cấm đạo nên chúng ta mới mất nước. Bức tranh Tam anh chiến nhất bố của Nguyễn Gia Trí, vô tình hay hữu ý, chỉ vào việc này.

Phóng sự của Thạch Lam

Việt Sinh (Thạch Lam) bắt đầu viết những bài phóng sự ngắn trên Phong Hóa, năm 1933, như: Trên đồi Lim, Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng giang, Xoè của các cô nàng, Phong dao Mường[35]. Những bài này chưa hẳn là phóng sự mà giống tuỳ bút.

Đến loạt bài Hà Nội ban đêm ký Việt Sinh và Tràng Khanh, mới là phóng sự đúng nghiã. Hà Nội ban đêm còn là phóng sự đầu tiên về nghề làm điếm tại Hà Nội, vạch trần sự sa đọa và tồi tệ của thủ đô về đêm, chúng tôi đã giới thiệu trong chương Hoàng Đạo và Thạch Lam.

Trên Ngày Nay, Việt Sinh viết ba phóng sự ngắn Nhà cửa Annam[36], Đánh cá Hồ Tây[37] Bóng người Yên Thế[38]. Phóng sự của ông vừa có tính cách văn chương vừa thành thực, nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu lắng.

Một tháng ở nhà thương[39]: Tự nhiên bị sưng hạch ở cổ, bác sĩ cho biết là bệnh lao hạch (tuberculose glanglionnaire), phải mổ, Thạch Lam vào nhà thương Robin ở Cống Vọng. Nhờ bài phóng sự này ta biết Thạch Lam cao một thước bảy mươi, nhưng không chỉ có thế, ta còn biết được đời sống trong bệnh viện dưới thời Pháp thuộc:

"Qua cổng nhà thương, đến chỗ khám bệnh, tôi đã thấy dòng người chờ đợi: ba, bốn chục người như ma quỷ hiện hình: những người xanh xao, vàng võ, gầy như que củi. Đó là những người nhà quê nghèo ở các tỉnh, mắc những chứng bệnh ghê sợ đã đến thời kỳ cuối, lặn lội lên đây để xin vào nằm".

Trước khi có nhà thương Robin, mỗi ngày bệnh viện chết trung bình tám người, trong số đó 5 người có thể chữa được nếu đến sớm, nhưng người ta sợ nhà thương, không dám vô, gần chết mới xin vào. Hỏi người dân quê tại sao sợ? Họ bảo tốn tiền quá, khi vào phải qua mấy cửa là đã mất vài đồng rồi, chưa kể tiền thuốc men.

Nhà thương có ba giai cấp: các quan (bác sĩ), các thầy (khán hộ, sinh viên, nhân viên), ma-lát (malade, con bệnh) và hai khu vực: khu làm phúc, khu trả tiền. Một khán hộ phải lo cho cả trăm bệnh nhân. Vệ sinh không bảo đảm trong vùng làm phúc: một thùng nước uống cho cả phòng, ma-lát cứ việc thò tay bẩn cầm ống bơ vục nước mà uống! Một tuần ba ngày người thân được vào thăm: thứ ba, thứ năm, chủ nhật, từ 2 giờ đến 4 giờ chiều, cũng là ngày phô sự bất bình đẳng giàu nghèo: vào thăm phải có giấy phép quan ký, nhưng người nghèo thường không biết chữ, không biết xin giấy, mà các quan lại bận. Có người từ quê ra, không biết cách xin vào, đành phải về không. Có người đem quà đến thăm chồng, lạy lục mãi mới vào được, mới hay chồng chết đã mấy hôm. Người vú em [làm cho gia đình Thạch Lam] nằm bệnh viện, lỡ để cái chén lên bàn [ma-lát làm phúc không được để đồ dùng của mình lên bất cứ đâu] bị quan tát cho một cái: "Đây có phải nhà của chúng mày đâu?" Ma-lát làm phúc, phải ăn đứng, cơm đỏ như gạch, vừa mốc vừa hôi, nửa hột cơm nửa sạn. Chuẩn bị đón ông Công sứ Godart, bệnh viện được lau chùi sáng loáng, mấy hôm chờ ông Công sứ đến hụt, ma-lát được ăn menu khác hẳn. Tết, cây đào nở hoa, đêm người ta thi nhau cắt trộm vất ra ngoài tường, sáng sau cây đào trụi.

Lối viết của Thạch Lam luôn luôn nhẹ nhàng, nhưng làm ta đau đớn, không chỉ vì người bản xứ vẫn bị đối xử như tôi đòi, trong bệnh viện, mà còn cả đến thói ăn cắp vặt của người mình, cây hoa trong nhà thương cũng không từ, thực nhục nhã, nhưng Thạch Lam không trách gì cả, chỉ kể lại, mới là đau.

Hà Nội băm sáu phố phường đăng trên Ngày Nay năm 1940[40]. Không ai giới thiệu Hà Nội của Thạch Lam hay và đầy đủ hơn Khái Hưng:

"Và Thạch Lam thủ thỉ – bao giờ Thạch Lam cũng chỉ thủ thỉ, dù tức giận đến đâu.

Những thanh sắt ở đó (chùa Ngọc Sơn) cũng khá lâu rồi thì phải, mà chưa thấy ủy ban nào đó làm việc gì cả. Việc thì rất giản dị: nghiã là bỏ những cái đó đi là xong".

Nhưng Thạch Lam lưu tâm nhất đến cuộc sống hàng ngày của Hà Thành, đến những cái thú con của dân thành phố, cũng là những nhân vật bé nhỏ, đã gây cho thành phố cái tính cách đặc biệt của nó.

Ta hãy nghe Thạch Lam mở mục quà Hà Nội với một giọng yêu đương mà tự phụ của một dân Hà Nội: "Quà Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng là ngon lành và lịch sự. Ở các thôn quê, chút "quà Hà Nội" là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hóa của người cho…"

"… Nếu chúng ta về các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà Hà Nội có vị ngon là chừng nào! Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng rau ấy, bún ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, cái nước chấm ngon đi."

Ta nghe như thấy tiếng nhai và tiếng xuýt xoa của người ăn bún chả. Ngon thật! Và cái ngon, cái đặc sắc của Hà Nội ấy đáng được người ta nói đến và chép lại như người ta đã nói, đã chép lịch sử bà Bé Tý, bà Tư Hồng, hai nhân vật Hà Nội nhất của thời nay." (Tựa của Khái Hưng).

Bài Tựa này đề ngày 20-7-43. Ngày ấy Khái Hưng đã được tha về, ông vội thu thập những bài viết cuối cùng của Thạch Lam trên Ngày Nay: Hà Nội băm sáu phố phường, in thành sách. Thạch Lam mất đã hơn một năm[41], Nhất Linh còn lánh bên Tàu và Hoàng Đạo chắc chưa được thả. Hà Nội băm sáu phố phường, trong giây phút ấy, là chứng nhân của tình bạn, tình yêu, tình đoàn kết, giữa đất nước và con người. Lời Khái Hưng gắn bó sâu sắc với lịch sử hơn một ngàn năm, với Long Biên, tên thứ nhất của Hà Nội, khi Cao Biền đắp, tất cả chỉ để nói rằng: tình yêu, tình đoàn kết dân tộc ngàn năm, luôn luôn nằm trong chữ nghiã.

Bóng người Yên Thế

Chúng tôi dành những dòng cuối cho bài Bóng người Yên Thế[42], một phóng sự lịch sử, mà ngoài ngòi bút tế nhị của Việt Sinh (Thạch Lam), không chắc mấy ai viết được.

Hoàng Hoa Thám, bà Đặng Thị Nhu, vợ Ba, 
và Hoàng Thị Thế, con gái, Ngày Nay số 7

Hoàng Văn Vi, Ngày Nay số 8

Bà Lý Chuột, Ngày Nay số 8

Năm 1935, ít ai dám công khai nhắc đến Hoàng Hoa Thám như một vị anh hùng, vì người Pháp đang còn hân hoan kiêu hãnh gửi bưu thiếp đầu lâu pirates (bọn cướp) về nước. Việt Sinh có lẽ là người đầu tiên.

Thực hiện phóng sự Bóng người Yên Thế, Việt Sinh đã đến tận sào huyệt cuối cùng của Đề Thám để tìm lại những nhân chứng cuối cùng đã sống với người anh hùng Yên Thế. Ngòi bút ông không còn là của một nhà báo đi làm phóng sự, mà của một nhà văn yêu nước tìm đến vùng đồi núi thiêng liêng, phanh phui tâm khảm rừng sâu Yên Thế:

"Vùng Yên Thế: một vùng hiểm trở, toàn đồi, toàn những rừng rậm tối tăm, những bụi cây gai góc, những ngàn lau sắc và những nội cỏ mênh mông mà chỉ khi gió đến, ngả nghiêng rập rờn như sóng chiều lên mặt bể ngoài khơi".

Hai phụ nữ can trường của Tướng quân

Thạch Lam đến đất Yên Thế, nơi người anh hùng đã tung hoành, đã thất thế, tất cả đã xong, chẳng còn lại gì, trừ Hoàng Văn Vi, người con trai độc nhất của Đề Thám, sống sót, trong thờ ơ, lãnh đạm của dân quanh vùng. Văn Vi được mô tả như một người rụt rè nhút nhát lúc đầu, rồi dần dần khi bước vào rừng núi, trở lại với bản lĩnh kế vị người cha. Nhưng điều đáng chú ý ở đây, không phải là Hoàng Văn Vi, mà là hai người phụ nữ, mà chúng ta chưa từng biết đến tên, nói chi những hành động phi thường của họ, nếu không được Văn Vi kể, Việt Sinh ghi lại:

"Tôi ra đời năm 1908, trong lúc cha tôi còn đang cầm cự với nhà nước. Bấy giờ, thế quân đã yếu, thường cứ phải trốn tránh luôn, nay đóng chỗ này, mai đóng chỗ khác. Đẻ tôi cũng theo thầy tôi ở trong trại, sinh hạ được hai người con: chị tôi là Hoàng Thị Thế và tôi.

Người vú nuôi tôi có kể lại cho tôi biết cái đêm tôi ra đời chính là một đêm hãi hùng, lo sợ. Đêm ấy, ngày mồng hai tháng mười, sau một trận to, thầy tôi lui quân đóng ở Phồn Xương. Trong trại quân nhung, đẻ tôi không muốn cha tôi và quân lính, vì một người đàn bà mà bận lòng, nên nửa đêm, lẻn ra ngoài trại, đến gốc cây rẻ, chính mình lại đỡ đẻ cho mình. Rồi từ đây làm một mưu sĩ và một người tướng xông pha tên trận, đẻ tôi cũng không có lúc nào bận đến con thơ nữa. Vì vậy, ngay sau khi đẻ, giao tôi cho một người quen là bà Lý Chuột ở cùng làng."

Người đàn bà thứ nhất là "đẻ tôi", tên Đặng Thị Nhu, đang đêm lẻn ta ngoài trại đẻ một mình, rồi trao con cho vú trở lại bộ chỉ huy bàn tính kế hoạch chống Pháp. Người ấy là bà Ba Cẩn, Tướng của Đề Thám. Bà và con gái bị bắt năm 1909[43]. Theo Claude Gendre, Đề Thám bị ám sát hồi 6 giờ sáng ngày 10 tháng 2 năm 1913[44]. Cái chết của bà Đặng Thị Nhu các nơi ghi khác nhau: Theo Ngày Nay, bà tự vận năm 1913, khi bị đi đày ở Guyane[45]. Theo Philippe Chaplain, bà qua đời vì bệnh lao ở trại cách ly Alger trên đường sang Guyane ngày 25-11-1910[46]. Nhưng có ai biết được hành động phi thường tự đẻ con, trao cho vú của người mẹ nữ tướng trong đêm địch tấn công mãnh liệt vào đại bản doanh?

Người đàn bà thứ hai "u tôi" là mẹ nuôi, gắn bó với thân phận đứa bé mới sinh: Hoàng Văn Vi[47]:

"U nuôi tôi thương tôi hơn con đẻ. Vì tôi mà chịu bao nhiêu nỗi long đong, khổ sở. Năm tôi lên một, có người con rể làm lý trưởng lẻn ra tỉnh báo, nhà nước sai lính về bắt tôi, u nuôi tôi cùng mấy người con. Nhưng hỏi thế nào, u nuôi tôi cũng cứ nhất định một mực nhận tôi làm con đẻ. Người ta đã bắt người con trai u nuôi tôi, năm ấy 17 tuổi, bỏ vào rọ lăn qua đám trông gai, u nuôi tôi chỉ ứa nước mắt mà lắc đầu. Sau cùng lắm, không biết làm thế nào, họ đưa tôi và u nuôi tôi đi khắp đó đây, tỉnh này sang tỉnh khác, đến những người quen biết thầy tôi trước để hỏi xem tôi có giống thầy tôi không. Nhưng may lúc bấy giờ tôi giống u nuôi tôi lạ[48]. Vì thế nên sau khi đi chán các nơi, họ cũng lại đành để cho u nuôi tôi ẵm tôi trở về làng.

Suốt mấy năm được yên ổn. Người con rể đi báo ngày trước, thầy tôi bắt trói ngược lên cây gạo toan chém. Nhưng vì u nuôi tôi xin mãi, nên thầy tôi cũng tha".

Nếu Đề Thám đã gặp trăm ngàn kẻ phản bội trong cuộc đời tranh đấu, thì chỉ một tấm gan của bà Lý Chuột, cũng đủ phủ nghiã can trường lên tất cả những hành vi đê hèn phản phúc.

Rồi đến cụ già Giáp Văn Phúc, 76 tuổi, Cai Cờ, đã từng vào sinh ra tử bên Đề Thám, bị bắt, bị đi đầy ở Guyane, trở về, ngồi bên chiếc quan tài kê sẵn góc tường, kể với Việt Sinh: "Ấy, tối hôm qua, tôi vừa nằm mộng thấy quan tôi đấy. Ở đây năm nào chúng tôi cũng nhớ ngày cúng giỗ, ngày mồng tám tháng giêng. Lắm lúc ngồi, tôi cứ phảng phất như thấy hình bóng người ở bên mình, lại nhớ cái hồi tuổi trẻ…"

Và bà vợ Cai Cờ, chưa hề phai nhạt khí phách xưa: "Bà Cai đôi mắt long lanh, cất tiếng nói sang sảng: "Tôi còn nhớ những ngày theo "quan lớn tôi" ở trong trại, thật lắm bữa gian nan khổ sở…"

Khu rừng cuối

Sau khi giới thiệu những bộ mặt trung thành tuyệt đối với tướng quân Đề Thám, Việt Sinh tìm đến căn cứ cuối cùng, nơi những trận đánh kinh hồn đã diễn ra:

"Chúng tôi sang đồn Gò để tìm xem trên những dẫy đồi trùng điệp ấy còn có những dấu tích gì còn lại của một thời Đề Thám xưa.

Đến đây, nội cỏ mênh mông và bụi rậm bắt đầu nhường chỗ cho những khu rừng lau rậm rạp, cây cối sầm uất, um tùm. Rừng rẻ và rừng lim, sát chen lẫn nhau, những cây trò cao vút, thân cây thẳng và trắng kẻ nổi lên trên cái nền xanh đen của muôn vàn thứ lá rườm rà…

Ở trong những bụi cây như thế, một nguời ẩn núp thì trăm người cũng khó mà sục tìm được (…) Cái sức mạnh của Đề Thám là ở chỗ đó. Những đoạn đánh giết nhau kịch liệt chính đã xẩy ra ở giải đồi này…

Mà cũng chính trong khu rừng rậm ở đồi này đã kết liễu một cách khốn nạn không ai ngờ cái đời mãnh liệt của ông chủ Yên Thế.

Người ta cho là số mệnh. Vì trong trận Nhật Lệ cuối cùng, còn có một thầy với hai trò, mà ngoài quân lính vây trùng điệp, đốt cỏ cho chết cháy, thế mà trời mưa tắt lửa, thế mà Thám ra thoát vòng vây như không…

Mấy tên quân của Đường Tam Kỳ sang, Thám đã nghi rồi, sao còn chù chừ không giết?

Mà buổi sáng ấy ở trong rừng Thám xưa nay nằm ngủ không che mặt bao giờ, hôm ấy lại kéo chăn trùm kín, để đến nỗi mấy tên quân kia vác cuốc đến mà không biết. (…)

Một cái cảm giác buồn rầu, lạnh lẽo mà buổi chiều lại làm lạnh lẽo thêm như thấm thía vào trong người… Tôi lặng yên nhìn ông Vi! Ông ta đứng sững bên bờ thành, mắt đăm đắm như nhớ lại những sự đau đớn xót thương…

Bóng mây chiều bỗng che rợp dẫy đồi… Tôi tưởng như bóng người Yên Thế lẩn quất đâu đây, mênh mông, rộng rãi như ôm ấp cả một vùng…"

Tại sao đúng lúc đó Thạch Lam lại lên Yên Thế? Lại viết như thế? Viết những dòng khắc sâu vào tâm khảm người Việt, ở bất cứ nơi nào, thời nào, như thế?

Thạch Lam là một người bí mật có hành động đột xuất và khai phá. Những việc người thanh niên này đốt đèn trong Hà Nội ban đêm, hay lên bản Mường xem múa Xoè, rồi đi tìm Bóng người Yên Thế, dường như liên hệ mật thiết với nhau, có gì như tiên tri, dẫn đường: Hà Nội ban đêm khai phá nền phóng sự; múa Xoè ảnh hưởng đến tuỳ bút nói chung, Nguyễn Tuân nói riêng, và Yên Thế, phải chăng đã mở màn cho cách mạng Tự Lực văn đoàn?

Thạch Lam đã khai trương báo Ngày Nay bằng chân dung hai người phụ nữ phi thường, bên chiếc bóng chập chờn của vị anh hùng Yên Thế.

(còn nữa)

Thụy Khuê

thuykhue.free.fr


[1] Theo quảng cáo đăng trên Ngày Nay số 13 (21-5-35).

[2] Ngày Nay mới đầu 10 ngày ra một lần. Trên số 5 (10-3-35) quảng cáo: Ngày Nay tạm nghỉ một kỳ và bắt đầu từ tháng sau, 1-4-35, ra hàng tuần. Số 6 (2-4-35), bỏ tên Nguyễn Tường Cẩm và Nguyễn Tường Lân. Số 7 (9-4-35) đầu báo đề: Giám đốc Nguyễn Tường Tam. Chủ bút: Nguyễn Tường Lân. Quản lý: Nguyễn Văn Thức. Nguyễn Văn Thức sẽ biển thủ ngân quỹ Phong Hóa Ngày Nay (xem chương: Khái Hưng và Phong Hóa).

[3] Nguyễn Tường Cẩm đã viết hai bài trên trên Phong Hóa, là Thomas Bata, nhà đóng giầy trứ danh mới từ trần, Phong Hóa số 16 (6-10-32) và truyện ngắn Bích Châu, trên Phong Hóa số 67 (6-10-33).

[4] Phóng sự La Khê dệt lụa, in trên Ngày Nay số 1 (30-1-35); Năm mới, Ngày Nay số 2 (10-2-35); Nền Mỹ thuật Việt Nam, Ngày Nay số 3 (20-2-35); Dân quê, Ngày Nay số 4 (1-3-35).

[5] Sắm tếtGió bấc lạnh lùng, Ngày Nay số 1 (30-1-35); Dưới bến trên thuyền, Ngày Nay số 2 (10-2-35); Thủy tiên ngày TếtTục ngày tết, Ngày Nay số 3 (20-2-35); Ngày giỗ trận… ở chùa Đồng Quang, Ngày Nay số 3 (20-2-35); Trên đồi Lim hội hè đinh đám, Ngày Nay số 4 (1-3-35); và Lạng Sơn ngày hội viết chung với Thế Lữ, Ngày Nay số 5(10-3-35).

[6] Trước vành móng ngựa in trên Phong Hóa từ số 151 (31-8-35) và ngừng ở Ngày Nay số 140 (10-12-38).

[7] Chương 1, Tôi kéo xe (bản Xuân Thu in lại tại Hoa Kỳ, không đề năm, trang 9).

[8] Trong cuốn Tôi kéo xe in năm 1969, tại Sài Gòn, ở cuối có đề: Hanoi, Juin 1932, và Tam Lang, trong bài bạt viết rằng: "Năm 1932, viết thiên phóng sự Tôi kéo xe, cho đăng trên Hà Thành Ngọ Báo, và năm 1935, tự bỏ tiền ra in thành sách". Vũ Ngọc Phan không nói đến việc Tôi kéo xe in ở Ngọ Báo và chúng tôi đã tìm trên Hà Thành Ngọ Báo, bản điện tử của Thư viện Quốc Gia, cũng chưa thấy Tôi kéo xe, vì bản này cũng thiếu nhiều số.

[9] Tam Lang, trong bài bạt Tôi kéo xe.

[10] Tôi kéo xe, bản Xuân Thu chụp in lại tại Hoa Kỳ, trang 11.

[11] Kỹ nghệ lấy Tây (in trên Nhật Tân từ số 69, 3-12-34), Đông Phương in thành sách năm 1936 và Cơm thầy cơm cô (đăng trên Hà Nội báo từ số 12 (25-3-36), Minh Phượng in năm 1937.

[12] Trích Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập I, nxb Văn Học, Hà Nội, 1996, trang 581.

[13] Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập I, trang 582.

[14] Bút hiệu Nhất Chi Mai được ký dưới bài Quần trắng áo lam (Phong Hóa số 4, 7-7-32) và Một buổi diễn kịch làm phúc (Phong Hóa số 5, 14-7-32), xem chương Tú Mỡ và Thế Lữ.

[15] Đúng ra, ông có dùng hai lần, trên Phong Hóa số 122 (2-11-34) với bài phóng sự Từ viện dân biểu cho đến ô tô hàng ký Nhất Chi Mai. Và Phong Hóa số 124 (16-11-34) với bài phóng sự Đi thăm mấy ngôi mả sống ở Thái Bình ký Nhất Chi Mai, nói về những ngôi sinh phần (mả sống) đồ sộ của các tuần phủ, dân biểu ở tỉnh Thái Bình.

[16] In trên Ngày Nay, từ số 2 (10-2-35) đến số 8 (16-4-35).

[17] In trên Ngày Nay số 4 (1-3-35) và số 5 (10-3-35).

[18] In trên Ngày Nay, từ số 6 (2-4-35) đến số 13 (21-5-35).

[19] In trên Ngày Nay từ số 6 (2-4-35) đến số 13 (21-5-35).

[20] Theo website Nhân vật lịch sử Việt Nam, Trọng Lang sinh ngày 2-10-1916 tại Hà Đông, mất ngày 29-4-1986 tại Sài Gòn.

[21] Lạc vào động bà chúa Hàng Bạc in trên Ngày Nay số 1(30-1-35), số 2 (10-2-35), số 3 (20-2-35) và số 4 (1-3-35).

[22] Phóng sự này in trên Ngày Nay từ số 3 (20-2-35) đến số 13 (21-5-35).

[23] Đăng trên Ngày Nay từ số 6 (2-4-35) đến số 9 (23-4-35).

[24] In trên Ngày Nay từ số 11 (7-5-35), đến số 13 (21-5-35) rồi chuyển sang Phong Hóa từ số 151 (31-8-35) đến số 157 (11-10-35), vì Ngày Nay ra không đều.

[25] In trên Phong Hóa, từ số 152 (6-9-35) đến số 157 (11-10-35).

[26] In trên Phong Hóa, từ số 164 (29-11-35) đến số 173 (7-2-36).

[27] Đăng trên Ngày Nay, từ số 48 (27-2-37) đến số 75 (5-9-37). Đời Nay xuất bản 1938. Nhã Nam mới tái bản.

[28] In trên Ngày Nay, từ số 95 (23-1-38) đến số 120 (24-7-38).

[29] In trên Ngày Nay, từ số 177 (2-9-39) đến số 194 (30-12-39).

[30] In trên Ngày Nay kỷ nguyên mới, từ số 1(5-5-45) đến số 4 (26-5-45). Bản điện tử Ngày Nay kỷ nguyên mới, thiếu 3 số: 5, 6 và 7, nên không biết phóng sự Đói kết thúc ở số nào.

[31] In trên Ngày Nay kỷ nguyên mới, từ số 8 (23-6-45) đến số 16 (18-8-45).

[32] Từ số 48 (27-2-37) đến số 75 (5-9-37). Đời Nay in năm 1938. Nhã Nam tái bản 2015.

[33] Xăm hay săm là chambre (phòng ngủ).

[34] Trích Ngày Nay, từ số 68 (18-7-37) đến số 75 (5-9-37).

[35] Trên đồi Lim (Phong Hóa số 33, 10-2-33), Nghe hát quan họ một đêm ở Lũng giang (Phong Hóa số 34, 17-2-33), Xoè của các cô nàng, (Phong Hóa số 77, 15-12-33) và Phong dao Mường (Phong Hóa số 78, 22-12-33).

[36] In trên Ngày Nay số 4 (1-3-35), viết về tình trạng nhà cửa tối tăm, chật hẹp, lầm lội, nhớp nháp, trẻ con chơi trong bùn, ở thôn quê, với hình ảnh đi kèm. Bài này có mục đích giới thiệu những nhà mẫu cho dân quê của kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện (đã in trên Phong Hóa) mở đầu chương trình Nhà Ánh Sáng, thực hiện hai năm sau.

[37] In trên Ngày Nay số 5 (10-3-35) cũng với hình ảnh đi kèm, Việt Sinh đi theo những thuyền chài, khám phá đời sống của họ, tìm hiểu những thủ thuật trong nghề đánh cá.

[38] In trên Ngày Nay số 8 (16-4-35) và số 9 (23-4-35).

[39] In trên Ngày Nay, từ số 59 (16-5-37) đến số 65 (27-6-37).

[40] Từ Ngày Nay số 201(2-3-40) đến số 223 (31-8-40).

[41] Thạch Lam mất ngày 27-6-1942.

[42] In trên Ngày Nay số 8 (16-4-35) và số 9 (23-4-35).

[43] Hoàng Thị Thế được toàn quyền Albert Sarraut nhận làm con nuôi, cho sang Pháp học, cựu toàn quyền Paul Doumer đỡ đầu, năm 1925, đỗ tù tái I, trở về nước làm ở Phủ Thống sứ Bắc kỳ. Năm 1927 trở lại Pháp, năm 1930, bắt đầu đóng phim, năm 1931, kết hôn với Robert Bourges, người Bỉ, có một con trai, Jean-Marie Bourges. Năm 1960, bà trở về nước, mới đầu ở Hà Nội, sau lên Bắc Giang rồi trở về lại Hà Nội ở đến lúc mất năm 1988. Xem Kỷ niệm thời thơ ấu Hoàng Thị Thế, hồi ký của con gái Hoàng Hoa Thám, do Lê Kỳ Anh (Hoàng Cầm) dịch từ tiếng Pháp, Khổng Đức Thiêm hiệu đính, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2017.

[44] Theo Claude Gendre, Le Dê Thám (1846-1913) Un résistant Viêtnamien à la colonisation française (Đề Thám (1846-1913) một người Việt kháng chiến chống chế độ thực dân Pháp), L’Harmattan, Paris, 2009, trang 195.

[45] Theo lời ghi dưới ảnh bà, in trên Ngày Nay số 7 (9-4-35), trang 7.

[46] Le Dê Thám (1846-1913), sđd, trang 181.

[47] Hoàng Văn Vi là tên đặt để trốn Pháp, nguyên tên là Hoàng Hoa Phồn, do cha mẹ đặt để kỷ niệm đồn Phồn Xương. Hoàng Văn Vị mất năm 1945, ở tuổi 37, sau Thạch Lam 3 năm, trong hoàn cảnh nào, không thấy đâu ghi rõ.

[48] Bây giờ thì trông nét mặt ông lại giống nét mặt Đề Thám (chú thích của Việt Sinh).

Nguồn: Văn Việt