Sunday, May 16, 2021

2024. ĐẶNG TIẾN Ba bài thơ




CÙNG NGUYỄN CÔNG TRỨ

Sau giờ đọc văn "Bài ca ngất ngưởng"


Ngày ông nhận quyết định hưu quan,

Hình như cả kinh đô bàng hoàng,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng…

Làm quan chán, ông muốn làm trẻ con,

Cưỡi bò thung thăng bờ đê lộng gió.

Dân gian ngờ ông vẫn còn ấm ức,

Bịa chuyện mo nang che miệng thế gian cười.

Tôi không bao giờ tin Nguyễn Công Trứ lại tầm thường đến thế!

Nghe nói miền Kim Sơn, Tiền Hải dân dựng đền thờ ông khi ông còn sống,

Ông không màng,

Ông không chiêu dân lập ấp khẩn hoang,

Thì sẽ có người khác,

Nước Nam mình thời nào cũng có người tài.

Cần gì đền miếu!

Ông về quê.

Hồng Lĩnh phau phau mây trắng,

Lam Giang biêng biếc dòng xanh,

Nhưng không lên núi một mình,

Dắt díu theo toàn gái đẹp,

Lưng ong, mắt biếc, mày ngài,

Tom chát, chát tom, sênh phách.

Thế gian cười hay khóc,

Ông cứ sống được là mình.

Ăn ngon mặc đẹp sao bằng chơi đẹp,

“Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch….”

Lưu danh muôn đời để làm chi,

Sống cho trọn kiếp người… nhớ câu “sinh kí tử quy”,

Biết sống cho mình, được mấy người biết thế!

Nương dâu, bãi bể,

Bãi bể, nương dâu,

Ông vẫn vẹn nguyên như thế.

Đàn ca sáo nhị phách sênh

Tom tom chát.

Người xinh

Giọng hát cũng xinh,

Người ròn cái tỉnh tình tinh càng ròn.

Về Tiền Hải, Kim Sơn,

Chỗ nào cũng thấy ông hiển hiện.

Về Cổ Đạm

Nghe đào nương ca cao vút tiếng thông reo.

Tom chát, tom tom chát, chát tom…


 

VỚI LÍ BẠCH

 

Ông sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có,

Chẳng có tội tình gì,

Quê hương ông xa Trường An vạn dặm đường,

Càng hay.

Không phải uốn mình theo lễ,

Không phải tự trấn an bằng sáo ngữ “an bần lạc đạo”,

Khỏi phải nghe cho rườm tai những lời đạo chích – thánh nhân.

Múa kiếm, làm thơ và uống rượu,

Cho phỉ chí làm trai cho bõ công trời sinh.

Uống rượu một mình dưới trăng và ngêu ngao hát…

Có thêm bạn bè thì cởi áo cừu, đem ngựa quý mà đổi lấy rượu ngon.

Tiền bạc, chức tước là vật bên ngoài chỉ làm tấm thân cồng kềnh thêm nặng,

Chết đi rồi ai lưu lại danh thơm?

Chỉ thấy chật đầy những trang sử hôn quân, ngu trung, bất nhân, bất nghĩa,

Chỉ thấy chật đầy những trang sử xương trắng phơi đầy đồng nội,

Chỉ thấy chật đầy nước mắt dân đen.

Làm trai cũng muốn đem tài giúp nước,

Nhưng phượng hoàng thi chung lũ vịt gà, Lí Bạch không thèm.

Trời sinh ra ông có tài, ông sẽ sống có ích,

Cần chi một tấm biển đề danh!

Lâm triều, ông nhận ngay ra thân phận,

Nhà thơ ngự dụng làm sang cho Đường Minh Hoàng,

Biết bao kẻ lấy thế làm vinh còn ông chỉ thấy nhục.

Quán rượu nghèoTràng An ông tìm đến hàng ngày.

Nỗi nhục nhã liệu có rửa trôi bằng rượu đắng?

Thân phận tôi đòi càng thấm thía khi say!

Những mũ cao áo dài ông khinh bỉ,

Cả em trai họ Dương ông cũng đem ra làm trò hề,

Cả vua nữa ông cũng coi là trẻ ranh không sợ,

Làm thơ tình gửi tặng Quý Phi.

Giữa Trường An lunh linh hoa lệ,

Ông nhận ra dông bão phía trời xa,

Sấm sét nổ kinh đô thành đống gạch,

Cỏ mọc đầy lang sói ùa ra.

Học theo người xưa “quy khứ lai từ…”

Không về được với Đào Nguyên thì ta về với rừng với núi,

Nghe thông reo suối hát nhìn ngắm mây bay,

Ngắm trăng khuya một mình và nghe chim hót,

Bận tâm làm gì,

Cuộc thế phù du.

Thuyền trôi trên sông, trăng sáng bốn bề,

Lòng sông xanh thẳm,

Trời cao mây bay,

Gió hiu hiu thổi,

Uống rượu và hát,

Trời cho ta tài,

Cho ta trí,

Cho ta làm người.

Nào thêm một chén ta mời ta,

Thêm chén nữa ta mời trăng sáng,

Giã từ cuộc thế phù du.

 

 

VỚI ĐỖ PHỦ

 

Suốt đời ông mong có một minh quân,

Suốt đời ông đọc sách mong mỗi khi lên tiếng;

Bút mực có thần.

Học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan…

Thờ vua và giúp dân đời yên bình ngày Nghiêu tháng Thuấn,

Lối đi ấy thênh thang hay đường cùng ngõ cụt?

Nào ai có hay!

Thời trai trẻ cũng có khi phải khom lưng và uốn cong ngòi bút,

Viết những lời giả trá mong nhận được ân huệ từ bề trên,

Hàng chục bài thơ, nhiều trăm bài thơ rập rờn sáo ngữ,

Đàn bướm ngôn từ sặc sỡ,

Đàn bướm ngôn từ chết khô,

Đàn bướm ngôn từ vô dụng.

Cuộc thế vần xoay loạn lạc nổ bùng,

Trường An mùa xuân hoa đầm đìa nước mắt,

Cỏ mọc đầy che kín mặt thành,

Ngõ Ô Y vắng tanh vắng ngắt,

Cú bay, quạ bay mắt xanh lè xám ngắt,

Khắp Trung Nguyên xương trắng phơi đầy,

Biên thùy máu thành biển đỏ.

Giấc mộng Thuấn – Nghiêu thành mây khói,

Quan hạt vừng Đỗ Phủ hóa dân đen.

Loạn lạc, chia lìa hất ông về nơi cùng khổ

Thơ ông đẫm lệ nỗi oan khiên thập loại chúng sinh.

Ông viết thơ cho mình,

Ông viết thơ vì mình,

Tận cùng nỗi đau, tận cùng nước mắt, tận cùng máu,

Sống trên quê nhà mà nơm nớp âu lo,

Người sống hệt như búi cỏ,

Bị hất tung lên khô héo phận hèn.

Người chết hóa thành ma, thành quỷ,

Đêm buồn dài bất tận

Người sống sót trở về sau loạn như ma hiện giữa ban ngày,

Sức dân tàn kiệt

Khắp Trung Nguyên làng mạc xác xơ gầy

Khắp Trung Nguyên rền rĩ khóc than ai oán

Mặt trời úa vàng

Vầng trăng tái xám.

 

Nguồn: Văn Việt

______________

Ghi chú: Tác giả 3 bài thơ này đang sống ở Thái Nguyên, trùng tên với nhà phê bình văn học Đặng Tiến đang sống ở Pháp.