Friday, June 25, 2021

2071. Bản điện tử tập thơ HOA DIÊN VĨ HOANG DẠI của Louise Gluck (Giải Nobel văn chương 2020) - Ngu Yên dịch



To:

Phụng Lian Dan Vian Hiền Thian

Aeri Erilyn BayĐình Anavi CamĐình

The Wild Iris

Pulitzer Prize 1993.

Wiliam Carlos Wiliam Award.

Louise Gluck

Nobel Prize 2020

Hoa Diên Vĩ Hoang Dại

Ngu Yên dịch       

 

Mục Lục

 

Giới thiệu tập thơ The Wild Iris.

Tứ thơ trong sáng tạo của Louise Gluck.

Chuyện Làm Mõ Tụng Kinh. 25

 

Hoa Diên Vĩ Hoang Dại. The Wild Iris.

Kinh Sáng. Matins.

Kinh Sáng. Matins.

Hoa Kèn Ba Cánh. Trillium.

Hoa Lamium. Lamium.

Hạt Tuyết. Snowdrops.

Buổi Sáng Trong Suốt. Clear Morning.

Tuyết Mùa Xuân. Spring Snow.

Cuối Mùa Đông. End of Winter.

Kinh Sáng. Matins.

Kinh Sáng. Matins.

Hoa Hải Song. Scilla.

Gió Ngược. Retreating Wind.

Khu Vườn. The Garden.

Cây Táo Gai. The Hawthorn Tree.

Cảm Khái Dưới Ánh Trăng. Love in Monnlight.

Tháng Tư. April.

Hoa Tím. Violets.

Cỏ Dại. Witchgrass.

Hoa Huệ Của Jacob. The Jacob’s Ladder.

Kinh Sáng. Matins.

Kinh Sáng. Matins.

Ca Khúc. Song.

Hoa Đồng Nội. Field Flowers.

Cây Anh Túc Đỏ. The Red Poppy.

Cỏ Ba Lá. Clover.

Kinh Sáng. Matins.

Trời và Đất. Heaven and Earth.

Ngưỡng Cửa. The Doorway.

Giữa Mùa Hè. Midsummer.

Kinh Chiều. Vespers.

Kinh Chiều. Vespers.

Kinh Chiều. Vespers.

Hoa Cúc. Daisies.

Cuối Mùa Hè. End of Summer.

Kinh Chiều. Vespers.

Kinh Chiều. Vespers.

Kinh Chiều. Vespers.

Bóng Tối Lúc Còn Sớm. Early Darkness.

Mùa Gặt. Harvest.

Hoa Hồng Trắng. The White Rose.

Hoa Ipomoea. Ipomoea.

Đảo Nhỏ. Presque Isle.

Ánh Sáng Rút Lui. Retreating Light.

Kinh Chiều. Vespers.

Kinh Chiều: Ngày Tái Lâm. Vespers: Parousia.

Kinh Chiều. Vespers.

Kinh Chiều. Vespers.

Hoàng Hôn. Sunset.

Bài Ru Ngủ. Lyllaby.

Hoa Huệ Xám. The Silver Lily.

Hoàng Hôn Tháng Chín. September Twinlight.

Hoa Huệ Vàng. The Gold Lily.

Hoa Huệ Trắng. The White Lilies.


Nhà thơ Louise Gluck

 

GIỚI THIỆU TẬP THƠ

THE WILD IRIS

 

Tập thơ The Wild Iris ấn hành năm 1992 đã mang lại giải thưởng Pulitzer cho thi sĩ Louise Gluck.

Trước khi lãnh giải Nobel văn chương năm 2020, bà đã là một thi sĩ nổi tiếng, Đoạt một số giải thưởng và tước hiệu  quan trọng, như Thi sĩ Công huân quốc gia năm 2003-2004. 

 

Thi sĩ Robert Hass nhận xét về bà: “...một trong những nhà thơ trữ tình thuần túy và thành công nhất hiện nay.”

The Wild Iris, Hoa Diên Vĩ Hoang Dại, là một tập hợp thơ tuyển chọn những bài miêu tả khu vườn của thi sĩ. Trong 54 bài thơ này, bà diễn đạt thâm trầm những thao thức của linh hồn, những câu hỏi về siêu nhiên, những hình ảnh bình thường trở thành ẩn dụ, dụ ngôn nhắc nhở ý nghĩa trong đời sống hàng ngày. 

The Wild Iris khi mới đọc qua có thể có cảm nhận nó đơn giản, không có gì mới lạ, kể lể tâm tình. Nếu đọc đôi lần, đọc kỹ hơn, thơ Wild Iris trở nên phức tạp và sâu sắc. Chẳng những đòi hỏi người đọc phải có kinh nghiệm sống, mà còn phải có tư duy về kinh nghiệm đã trải qua hoặc đã từng quan sát.

Ví dụ, viết về Thượng Đế qua một đoạn độc thoại nội tâm, bà đưa ra một điều cơ bản đáng suy tư: Thượng Đế luôn luôn đòi hỏi con người phải kính mến, yêu thương Thượng Đế để được  đáp trả những ân sủng.

[...]

Tháng năm dài đen tối,

chúng con thay phiên canh giữ vườn địa đàng,

những giọt lệ đầu tiên trào ra khỏi mắt

như mặt đất sa mù bởi cánh hoa,

vài cánh đỏ sậm,

vài cánh đỏ màu thịt tươi.

Chúng con không bao giờ nghĩ

đang học từ cha cách sống giáo điều.

Đơn thuần chúng con hiểu,

không phải bản tính người,

chỉ yêu thương vì muốn được yêu thương.

(Matins.)

 

Về mặt học thuật, trong tập thơ này, bà sử dụng rất nhiều phương pháp nhân cách hóa, hình tượng hóa. Những bông hoa, thời tiết, cảnh trí, trở thành nhân vật, nói lên những nhận xét từ góc nhìn của chúng, cho dù đó là ý niệm, quan điểm của thi sĩ.

Nhân cách hóa là kỹ thuật quen thuộc vì hầu hết mọi người trải qua tuổi thơ đều đã từng nghe kể truyện, xem hình, theo dõi phim với những vai chính như con thú, bông hoa, chim chóc nói tiếng người. Tiềm thức đó dẫn từ ngụ ngôn đi vào hiện thực đời sống, dễ dàng nhận diện tứ thơ và ẩn nghĩa bên trong.

Bà sử dụng chữ nghĩa giản dị, dễ hiểu; xây dựng những tứ thơ bình thường, hầu hết là những kinh nghiệm xảy ra thường ngày; để gói ghém những điều cần giải mã hoặc cần kinh nghiệm để nhận thức.

Như nói về gió, ngụ ý về đời sống con người:

Đời ngươi sống như cánh chim bay

bắt đầu và chấm dứt trong tĩnh lặng

bắt đầu và chấm dứt, trong dạng âm vang

bay vòng cung từ cây Bạch dương đến cây Táo.

(Retreating Wind.)

Sử dụng hiện tượng hóa thuần thục nói lên sự thấm nhuần của thi sĩ về một vật thể hoặc sinh vật không phải là người. Dùng phẩm chất của những thứ không-người để ngụ ý phẩm chất làm người. Dùng những ý và tứ thơ từ những quan sát và suy nghĩ của các “nhân vật” không phải người để sáng tác về người, bà mang đến sự mới mẻ và khác thường từ những gì rất bình thường. Kỹ thuật này pha lẫn giữa tự sự và ẩn dụ có khả năng cưu mang nhiều lớp hoặc nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi một khả năng tưởng tượng phong phú, nhưng  không quá độ phiêu lưu, tạo ra những tứ thơ có chất lượng chinh phục người đọc. Dù biết lời thơ là những hư cấu từ kinh nghiệm và nhận thức, nhưng người đọc vẫn cảm thấy thú vị và hài lòng.

Ví dụ:

Đôi khi đàn ông hay đàn bà áp đặt tuyệt vọng

lên người khác,

gọi là lột trần trái tim,

nói một cách khác, lột trần linh hồn

[...]

(Love in Moonlight.)

Đọc thơ trong The Wild Iris, không phải đọc trực tiếp từ tác giả, mà đọc từ những “bản chất, cá tính” của cỏ, hoa, thiên nhiên, đồ vật. Vì vậy, đôi lúc, tứ thơ gây bỡ ngỡ, lý luận lạ lẫm, và những câu thơ thường nêu ra băn khoăn, thắc mắc muốn đọc lại. 

Trong tập thơ này, người đọc tìm thấy nhiều bài thơ mang  tựa đề giống nhau, như Kinh Sáng (Matins), Kinh Chiều (Vespers). Có lẽ, dụng ý của bà cho người đọc theo dõi hai loại kinh dài, chia làm nhiều đoạn, nhưng không liên tục, mà trình bày theo kỹ thuật mảnh rời trong khuynh hướng Hậu Hiện Đại. Những mảnh rời trong cùng một tựa đề cho phép người đọc theo dõi từng chủ đề phụ và nội dung khác nhau. Nói một cách khác, không có tính nhất quán nhưng có tính liên đới. Thơ có nội dung và ý nghĩa liên đới xuất hiện trong thơ mảnh rời, thơ Đa đầu, thơ Mô hình và nghệ thuật quảng cáo.

Khác với đọc thơ Octavio Paz, Luis Borges, tôi có cảm giác như đang nghe hai người thầy tận tình chia xẻ những trầm tư khó hiểu trong đời người. Đọc Pablo Neruda, có cảm giác đang làm quen với một chính trị gia thi sĩ, từng trải phong lưu, thâm thúy nghệ thuật phụ nữ. Đọc Federico Garcia Lorca, cảm tưởng đang tận hưởng tâm tình lãng mạn của một nghệ sĩ tài hoa vượt bậc. Gây cho mình ấn tượng chưa biết thế nào là yêu. Tiếc thay, ông qua đời quá sớm... Đọc The Wild Iris, tôi thấy được người chị hiền hậu ghé thăm, kể nghe những chuyện tỉ mỉ vui buồn. Có chuyện thâm trầm. Có chuyện ngộ nghĩnh. Có chuyện mới lạ... Tuy vậy, không phải chuyện nào cũng dễ hiểu. Có nhiều lúc phải yêu cầu chị kể lại vài lần hoặc nhiều lần để có thể nắm bắt nhiều sâu sắc hơn. Ngồi nghe những chuyện đời quen thuộc với ý nghĩa tinh vi, làm ấm lòng những ai không vừa ý cuộc sống. Những ai chán nản vì yên ba thâm xứ hữu ngư châu. (*)

Louise Gluck phát hành 17 tác phẩm thơ trước khi lãnh giải Nobel. Mỗi tác phẩm của bà là mỗi bề mặt khác nhau của kinh nghiệm sống và nghệ thuật thơ từ phẩm chất riêng tư, không tiền phong cũng không truyền thống. Thơ của bà có khả năng xâm nhập vào đám đông và lưu lại những soi sáng văn chương.

 

Ghi chú:

Những bài thơ trong The Wild Iris được diễn đạt qua hình thức câu vắt hàng theo nhịp điệu và ý nghĩa do tác giả chọn lựa. Khi dịch sang tiếng Việt, tôi xin đổi thể thơ, một cách nào đó cho phù hợp với văn chương thơ Việt. Không tuân theo tinh thần và hình thể câu vắt hàng.

Tôi cũng chọn phương pháp dịch theo văn hóa Việt (Communicative translation), với mục đích, làm sao cho người đọc có thể cảm giác gần gũi với thơ Tự do tiếng Việt. Dĩ nhiên, dịch thơ là một công việc liều lĩnh như một kẻ ngoan cố, bị cảnh cáo, vẫn lần mò đi vào rừng lúc chạng vạng dày đặc sương mù.

(*) Uống Rượu Tiêu Sầu. Cao Bá Quát.

 

Tứ Thơ Sáng Tạo 

The Wild Iris

 

Nhà văn Võ Phiến có lần đã viết, tác phẩm gốc như con cá đẹp, bơi lội sống động. Khi chuyển sang bản dịch, chỉ còn bộ xương. Chuyện ví von này hầu như chính xác đối với việc dịch thơ. Bộ xương dù đầy đủ, dù đẹp cách mấy vẫn không phải con cá.

Tuy nhiên, một trong sáu nghệ thuật dịch đương đại là nghệ thuật dịch theo văn hóa của ngôn ngữ dịch, communicative translation, cho phép dịch thơ dùng bộ xương làm thành một con cá khác, tương tựa và có thể làm bằng nhựa, đất sét, gỗ, hoặc kim khí. Ngày nay, có thể làm thành con cá điện tử màu mè, sống động. Dù sao vẫn là hai con cá khác nhau. Có giá trị khác nhau.

Dịch là giải quyết tinh thần, ý tưởng và tứ thơ.

Chuyện ví von trên dẫn vào việc sáng tác trong thơ dịch. Dịch thơ không chỉ là tạo một bản sao với sự sửa chữa, mà còn là tạo một bản nghệ thuật có ý tưởng của bản gốc và một dung mạo tương tựa, giống mà không giống.

Đọc một bài thơ là đọc các tứ thơ để tìm đến, giao cảm hoặc nhận thức ý thơ. Tinh thần và ý tứ thơ chính là bộ xương. Ngôn ngữ, hình ảnh, thể thơ là da thịt, mắt đuôi, mang vây của con cá.

Chúng ta đang sống trong thời đại mà giá trị nghệ thuật vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc, được sự chiêm ngưỡng từ nhiều dân tộc khác. Một bài thơ được xem có giá trị thế giới, nghĩa là bài thơ đó được nhiều quốc gia, dân tộc công nhận giá trị về ý nghĩa và văn chương. Nhất là những quốc gia có khả năng, thành tích, và uy tín trong văn học toàn cầu. Bài thơ đó được chuyển dịch ra nhiều loại ngôn ngữ, hoặc vài ngôn ngữ chính đang thông dụng trên thế giới. Nói cách khác, bộ xương con cá, không phải con cá nguyên thủy, được thế giới ca ngợi và dĩ nhiên, từ bộ xương đó, trí tưởng tượng của dịch tạo thành trăm con cá đồng dạng.

Trong thực tế, có rất nhiều bài thơ hay, có giá trị nhưng không được chuyển dịch sang các ngôn ngữ khác. Ngược lại, nhiều bài thơ trên mức trung bình, có giá trị không cao nhưng được dịch ra ngoại ngữ vì tên tuổi của tác giả hoặc vì ngôn ngữ của bản gốc là loại ngôn ngữ thông dụng. Vì vậy, một bài thơ nổi tiếng trên thế giới, ngoài trừ giá trị ý nghĩa, còn nhiều yếu tố khác, kể cả may mắn.

Thông thường những thi sĩ nổi tiếng, được nhiều nhà phê bình uy tín và những nhà văn học thành danh trên thế giới công nhận, từ đó thơ của họ được dễ dàng dịch sang các ngôn ngữ ngoại.

Quan điểm mà tôi muốn trình bày là cá Lia thia, cá Rồng dù rất đẹp, nhưng khi chết đi, bộ xương mong manh sẽ chóng tan vào thời gian. Trong khi cá voi, dù mất hết da thịt, bộ xương vẫn trường tồn qua nhiều thế hệ. Nghĩa là, khi đối diện với lâu dài, tinh thần và ý tưởng của bài thơ đóng vai trò then chốt. Người dịch lần mò theo bộ xương để tái tạo da thịt và vảy cá. Tái tạo tứ thơ từ ý trong tứ là tìm kiếm hình ảnh, lời lẽ tương đương, đồng dạng, liên hệ với tứ bản gốc. Đôi khi, cần thiết phải sáng tạo một tứ thơ hoàn toàn mới. Nói một cách phân tích: tinh thần và ý nghĩa trong ý và tứ thơ thuộc về tác giả. Trong khi diễn đạt tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, hành văn thuộc về dịch giả. Tứ thơ đóng vai trò lưỡng thân: ý nghĩa tứ thuộc về bản gốc. Hình thể dong mạo phong thái tứ thuộc về bản dịch.

Tôi vẫn xem trọng việc phân tích và học hỏi những tứ thơ trong những bài thơ có giá trị và từ những tác giả được văn học thế giới công nhận tài hoa. Tôi không tin giải Nobel văn chương có khả năng xác nhận tài thơ bậc nhất của một thi sĩ trong bất kỳ thời kỳ nào. Nhưng tôi tin, giả Nobel cho chúng ta nhìn thấy một tài năng trong những tài năng hàng đầu.

Từ góc nhìn của người đọc, giá trị của thơ Louise Gluck nằm trong ý tưởng thâm trầm và hàm súc. Được diễn đạt qua những tứ thơ khác thường nhưng quen thuộc, dễ hiểu hoặc có thể hiểu được. Bà sử dụng ngôn ngữ bình thường, đơn giản, tiếp cận lời nói hàng ngày. Dù đôi khi, tác giả tạo ra chữ mới hoặc nghĩa mới, nhưng không hoàn toàn vượt xa tầm hiểu biết nếu chịu khó suy tư, phân tích.

Điểm nhấn về tứ thơ trong Hoa Diên Vĩ Hoang Dại là sự diễn tiến của suy tư, những tích lũy của kinh nghiệm, được chọn lựa của trí tuệ để thể hiện gián tiếp qua các “nhân vật không phải người.” Sự thể hiện gián tiếp cho thấy ý thức đóng vai trò quan trọng trước và trong khi bài thơ thành hình.

Sự lui bước của vô thức trong thi ca thế giới từ vài thập niên cuối thế kỷ 20 cho đến hôm nay, biểu lộ khả năng nhận thức và tư duy của trí tuệ là cần thiết cho sáng tác trong thế giới đương đại phức tạp và biến chuyển bất ngờ.

 

Xét Tứ Thơ Trong “Hoa Diên Vĩ Hoang Dại.”

 

Tứ thơ khác thường và cô đọng:

 

dù là khối đá hoặc không phải,

mặt trăng vẫn trước sau

là một vật gì đang sống.

(Love in Moonlight.)

 

[Lời nói của tháng Tư:]

 

ít ra các người phải hiểu

sự đau khổ phân chia giữa các người,

cho tất cả nhân loại,

nhờ vậy, tôi nhận biết các người

như màu xanh thẳm

đánh dấu cây Hải song dại,

màu trắng đánh dấu hoa rừng tím.

(April.)

 

[Lời nói của cỏ dại:]

Những thứ gì

khi sinh vào đời không được đón nhận

sẽ xem như rối loạn, bừa bãi –

(Witchgrass.)

 

Cha chỉ là hư không,

thay đổi nhanh chóng

vào một hình tượng,

tiếng tăm của cha

vung vãi khắp nơi,

đó là nguồn khôn ngoan

và thống khổ.

(Vespers: Parousia.)

 

[Lời nói của hoàng hôn:]

 

Hạnh phúc lớn nhất của tôi

là âm thanh do các người lên tiếng

gọi tôi ngay cả khi tuyệt vọng;

Tôi buồn rầu vì không thể đáp lại

bằng lời lẽ các người có thể nghe.

(Sunset.)

 

[Lời nói của hoàng hôn tháng Chín:]

Tôi tập hợp các người chung đụng với nhau;

tôi có thể hủy bỏ các người

như thể vất đi một bản nháp,

một bài tập

bởi vì tôi đã hoàn thành cho các người,

một cách nhìn

thấy được sự đau buồn sâu kín.

(Septemper Twinlight.)

 

Tứ thơ khác thường và thú vị:

 

[Lời của nhân vật sáng tạo nói với gió:]

 

Từ khi xa rời ngươi

ta nhìn thấy rõ ràng hơn.

Đáng lẽ giờ này hồn ngươi đã mênh mông,

nhưng không phải vậy,

chỉ là thứ gì nói năng lí nhí –

(Retreating Wind.)

 

(Lời của cây Táo Gai nói về đôi tình nhân:]

 

Khi đam mê hay cuồng nhiệt:

để đeo đuổi việc gì khác

có thể nào hai người bỏ hết

tất cả những gì đang có?

(The Hawthorn Tree.)

 

Hoặc cha đang nghĩ

Con mất quá nhiều thời giờ

trông ngóng tương lai

như bà già mặc áo ấm giữa mùa hè;

(Vespers.)

 

Cha nghĩ gì về trái tim con

sao phải gây cho nó khổ đau nhiều lần

như một chuyên gia trồng trọt thử nghiệm

những loại cây mới?

Xin cha thực tập trên những thứ khác

(Matins.)

 

[Lời nói của ánh sáng:]

 

Nhưng những gì các người có thể làm

chỉ là khóc.

Các người muốn hết mọi thứ nghe kể

nhưng không thứ nào suy xét ngọn ngành.

Từ đó, tôi nhận ra các người không thực sự suy nghĩ

bằng dũng cảm và đam mê;

chưa hề có đời sống riêng,

chỉ có bi kịch.

(Retreating Light.)

 

Tứ thơ bình thường mà ấn tượng:

 

[Lời nói của hoa Lamium:]

 

Nắng trời hầu như không chạm đến.

Đôi khi thấy ít nắng đầu xuân, nhấp nhá từ xa xôi.

Rồi lá mọc lên, che kín ánh nắng.

Tôi cảm thấy nắng lấp lánh trên lá, thất thường,

như ai đó đập vào ly thủy tinh bằng muỗng kim loại.

[...]

Có lẽ các người đã biết điều này.

Các người và những ai có cùng ý nghĩ.

Sống vì sự thật và tình thương, hiểu theo nghĩa rộng,

yêu những điều này là có trái tim lạnh lùng.

(Lamium.)

 

[Lời nói của mùa đông:]

 

Cao trên trần gian tĩnh lặng, một tiếng chim kêu

đánh thức niềm cô độc giữa các nhánh cây đen.

(End of Winter.)

 

[Lời nói của mùa hè:]

không như những gì các người đã biết, đã thấy

khi tìm trong bầu trời tươi sáng trên cánh đồng,

linh hồn vốn phiêu bồng

nay bị cố định như thiên văn kính

nhìn phóng đại bản thân –

(Midsummer.)

 

Người đọc thường bắt gặp những tứ thơ trong The Wild Iris tuy dễ hiểu nhưng khi ráp lại với nhau, trở thành bài thơ khó hiểu. Lý do này thuộc về cấu trúc. Louise Gluck không viết nhiều câu thơ chuyển tiếp hoặc móc nối giữa những tứ thơ. Người đọc sẽ nhận thấy ý tưởng từ tứ thơ này bắt sang tứ thơ kia thường xảy ra đột ngột. Đôi lúc, cảm thấy không liên hệ. Nói một cách khác, tác giả để cho người đọc phải tích cực sử dụng tưởng tượng, liên tưởng, suy xét để tự tạo ra sự chuyển tiếp và sự liên kết giữa các tứ thơ, để có thể tìm hiểu hoặc cảm nhận bài thơ. Cấu trúc này tạo cho bài thơ khả năng hàm súc. Thơ chỉ có nhiệm vụ trình bày, còn giải thích thuộc về các nhà phê bình và người đọc.

Tứ thơ không chỉ đại diện mà còn trình diễn, tượng trưng, điềm chỉ cho ý tưởng và giá trị của tư duy. Mặt khác, tứ thơ bày tỏ quan niệm, mức độ và phong cách đánh giá thẩm mỹ: vẻ đẹp, nét hay, của tác giả. Tứ thơ là thành phần quan trọng hàng đầu của bài thơ. Mỗi tứ thơ tạo ra thi cảnh. Những thi cảnh này kết hợp thành một thi cảnh lớn của bài thơ. Vì vậy, khi không nắm bắt được thi cảnh thì không thể cảm hoặc hiểu bài thơ. Không cảm, không hiểu thì không thể dịch. Hơn nữa, nếu dịch thuật sử dụng phương pháp dịch theo văn hóa thì thi cảnh của tứ và của toàn bài là nền tảng, mấu chốt, và phương tiện để chuyển dịch từ bản gốc sang bản dịch, không chỉ tương đương mà chủ yếu là thông tri, truyền đạt, và chia sẻ.


Nghi Vấn Tôn Giáo

Trong “Hoa Diên Vĩ Hoang Dại.”

 

Louise Gluck không chống đạo Thiên Chúa như một số người lầm tưởng khi đọc thơ bà, nhất là đọc dãy thơ: Kinh Sáng và Kinh Chiều.  Bà chỉ nêu lên những thao thức siêu nhiên đã được biện giải nhưng chưa thỏa mãn hoặc những nghi vấn tôn giáo không thể trả lời. Quan điểm mà tôi chia sẻ với bà là những nghi án trong kinh thánh và những phi lý trong đời sống được Thiên Chúa giáo giảng dạy đã không giải tỏa được những suy tư vượt qua ranh giới biện minh thiếu bằng chứng. Những tranh cãi về thần học sâu và xa sẽ dẫn đến bế tắt. Thiên Chúa giáo đưa câu giải đáp cuối cùng là “Phúc cho những người không thấy mà tin.” Không thể hiểu, chỉ chấp nhận. Bất khả luận, bất khả tri, không phải là cách giải quyết cho trí tuệ ngày nay. Do đó, hàng ngày, những tư duy về những bí ẩn đời sống vẫn liên tục xông xáo, tìm hiểu, vẫn nghi ngại những khoảng trống trong danh xưng Thượng Đế.

Xin tha lỗi nếu con nói yêu cha:

[bởi] quyền lực luôn luôn bị nghe nói dối

vì yếu đuối luôn luôn bị sợ hãi sai khiến

Con không thể yêu điều con không hiểu,

cha hầu như không tiết lộ chuyện gì:

(Matins. )

 

Sự vắng mặt của cha lâu ngày,

cho phép con sử dụng mặt đất,

cha dự tính sẽ thâu lợi từ cuộc đầu tư.

Con phải báo cáo việc này đã thất bại,

(Vespers.)

 

tội nghiệp Thượng Đế buồn rầu,

vì không bao giờ có

hoặc không bao giờ mất.

(Violets.)

 

Có một thời tin tưởng vào cha; con trồng cây Sung.

Nơi đây, tại Vermont,

tiểu bang không có mùa hè.

Như một thử thách: nếu cây này có thể sống,

nghĩa là cha có thật.

Theo lý luận này, cha không hiện hữu.

(Vespers.)

 

Cha tưởng rằng chúng con không biết.

Những trước đây chúng con đã biết,

trẻ con cũng biết những điều này.

Bây giờ, cha đừng bỏ đi –

Chúng con đã quen sống

nói dối để thỏa hiệp với cha.

(Vespers.)

 

tại sao cha làm con tổn thương,

tại sao cha muốn con bị ruồng bỏ trong giờ phút cuối,

trừ phi cha muốn con đói khát hy vọng

Con từ chối nhìn thấy cảnh cuối cùng

mất hết tất cả,

và thay vào đó sẽ tin rằng

cuối cùng con vẫn còn cha.

(Vespers.)


Đoạn thơ dẫn sau cùng bên trên cho người đọc thấy lòng tin của bà. Dù trải qua bao thắc mắc, bao lung lay, bao xao động khi không tìm thấy câu trả lời, nhưng bà có thể đánh đổi tất cả, mất tất cả, chỉ để còn giữ lại niềm tin: Thượng Đế hiện hữu.

Hầu hết thơ của Louise Gluck là những lời tâm sự hiền lành. Bộc lộ những tối tăm của đời sống. Những khinh nghiệm mà bà đã trải qua không có gì ghê gớm hoặc thương đau lớn lao, chỉ thăng trầm bình thường như mọi người. Những kinh nghiệm hàng ngày đó được ý nghĩ đào sâu và cảm xúc rọi sáng, khiến người đọc dễ dàng thông cảm, dễ bắt gặp những nét quen thuộc chung. Tuy nhiên đối với một số người đọc không thường xuyên suy tư về đời sống, về tâm linh, về con người, thì đôi khi sẽ cảm thấy lạc lõng.

Tôi vẫn luôn luôn cho rằng, thơ hay mang đến cho người đọc một loại ánh sáng bất ngờ làm cho tâm trí nhìn thấy những gì thú vị, hay ho, mà trước đây, chúng ta không thấy vì chúng chìm trong bóng tối. Những thứ này có khi ở cạnh bên, có khi ở xa xôi, có khi ẩn núp dưới những hình dạng khác. Tuy nhiên khi ánh sáng thơ xuất hiện, những thứ đó lộ hình, dù chúng là những buồn bã, khổ đau, tai họa, hoặc hân hoan, tất cả đều reo vui bằng một cách nào đó cho chúng ta cảm giác gần gũi với đời sống và tiếp cận những gì không thể giải thích ngay lúc đó.

Thơ của Louise Gluck cho tôi cảm giác bình an khi đối diện với những phi lý và tàn nhẫn của đời người. Bà kể lại những phi lý, tàn nhẫn này một cách hiền hoà, đều đều, nhẹ nhàng, bình dị, nhưng từ từ sâu lắng vào tâm hồn. Tôi nghe được tiếng vỗ tay từ bản thân của một người làm thơ, ca ngợi bà.

Hãy cùng tôi nghe Louise Gluck kể câu chuyện một cô bé đón chuyến tàu lửa, đi thăm bà ngoại. Một ẩn dụ về sự thất lạc của con người. Một chuyến đi đúng giờ từ cõi sống về cõi chết.  Câu chuyện là dụ ngôn nhưng dường như tuổi thơ của chúng ta đều trải qua vài hoàn cảnh tương tựa. Với tôi là lần đầu tiên đi lạc, không biết đường về nhà, lúc năm tuổi. Rồi dường như từ đó cho đến đến sáu mươi tuổi vẫn thường xuyên đi lạc.

Khi con tàu dừng lại, bà già nói, con phải leo lên. Cô bé hỏi, nhưng làm sao con biết, đúng chuyến tàu hay không? Bà ta trả lời, đúng rồi, vì nó đến đúng giờ.

Con tàu tiến đến gần sân ga; ống khói phun mây xám xịt. Thật là dễ sợ. Cô bé tưởng tượng rồi ôm chặt bó hoa Uất kim hương màu vàng để tặng cho bà ngoại. Tóc cô thắt bím thật chặt để chịu đựng đường xa. Rồi, lẳng lặng không một lời, cô leo lên toa tàu, nơi phát ra âm thanh lạ kỳ, không quen thuộc như tiếng nói, mà giống như tiếng rên xiết khóc gào. (*)

Mãi đến hôm nay, xương khủng long vẫn còn tìm thấy. Trong khi con sứa, bỏ ra nắng, một khoảng giờ sau, tan thành nước. Sứa không có xương. Bản chất xương có khả năng tồn tại theo thời gian. Trong một bài thơ, tinh thần là xương sống, ý nghĩa là xương sườn. Bộ xương này nhất định phải lớn, phải có trọng lượng, thì bài thơ mới có cơ hội sống lâu.

 

Ngu Yên, Houston-Austin và nông trại lãng mạn trên đường đi.

 

(*) UTOPIA.

When the train stops, the woman said, you must get on it. But how will I know, the child asked, it is the right train? It will be the right train, said the woman, because it is the right time. A train approached the station; clouds of grayish smoke streamed from the chimney. How terrified I am, the child thinks, clutching the yellow tulips she will give to her grandmother. Her hair has been tightly braided to withstand the journey. Then, without a word, she gets on the train, from which a strange sound comes, not in a language like the one she speaks, something more like a moan or a cry.

 

Chuyện Làm Mõ Tụng Kinh.

 

Làm mõ không phải dễ. Cứ gõ kêu lóc cóc là xong. Mõ tụng kinh của các bậc thượng thừa lúc nào cũng im lặng, nhưng khi kêu lên thì hồn xác nhập một. Mắt thứ ba mở ra. Tai siêu nhiên nghe thấu niềm vui trong tiếng khóc. Lòng trống vắng,  tĩnh lặng, đến nổi một hạt bụi bay cũng gây nên tiếng động.

Mõ của người chưa đắc đạo thì như ông Hàn Dũ, đời nhà Đường bên Trung Hoa, đã viết: “Mọi vật hễ không được cái thế quân bình thì kêu lên” (*). Tâm tư của người nghệ sĩ giống như loại mõ này.

Xưa kia, ở xứ Quảng có người bỏ quê đi xa học nghề làm mõ với các sư phụ nổi tiếng khắp miền bắc trung nam. Học đến tuổi trung niên, trở về quê hành nghề. Ông lên rừng, lặn lội năm này tháng nọ. Sau cùng, tìm được một cây trung thụ gỗ tốt, cưa một nhánh, mang về làm mõ. Làm xong, gõ lên, mõ kêu tiếng đục như người khan giọng cố hát lên cao. Bị chê cười, ông đóng cửa luyện thêm nghề. Năm năm sau, tìm lại cây trung thụ, cưa một nhánh, mang về làm mõ. Làm xong, gõ lên, mõ kêu tiếng du dương, khiến người tụng và người nghe đều buồn ngủ. Đã buồn ngủ thì khó thu nhận lời kinh. Bị chê cười, ông đóng cửa luyện thêm nghề. Mười năm sau, tìm lại cây trung thụ, cưa một nhánh, mang về làm mõ. Làm xong, gõ lên, mõ kêu tiếng sắc sảo lại khô khan. Tai nghe khó chịu. Không ai mua mõ. Thất bại, ông đóng cửa luyện thêm nghề. Đến tuổi già, tìm lại cây trung thụ nay đã thành cổ thụ, cưa một nhánh, mang về làm mõ. Làm xong, gõ lên, hồn xác nhập một, mắt thứ ba mở lớn. Tai siêu nhiên lắng nghe. Chưa kịp mang ra phục vụ người đời, thì ngã bệnh thương hàn mà mất. Con cháu của ông, không người nào thích theo nghề làm mõ tụng kinh nên bí quyết làm mõ cũng thất lạc.

Vì vậy, đọc thơ Hoa Diên Vĩ Hoang Dại bằng tiếng Việt mà thấy không hay, không phải vì thơ Louise Gluck không giá trị, mà vì tài làm mõ chưa đạt. Xin hẹn lần tới.

 

Ngu Yên, Houston, tháng Giêng 20

(*) Trích Bài Tựa “Tiễn Mạnh Đông Dã.” của Hàn Dũ.




   

HOA DIÊN VĨ HOANG DẠI.

 

[Lời cùa hoa Diên vĩ]


Đến cuối đường khổ đau

thấy một cánh cửa.

 

Tôi vẫn nhớ, xin nhắc lại:

các người gọi đây là cửa chết.

 

Bên trên, tiếng động, cành thông lắc lư.

Rồi im ắng. Nắng yếu ớt

lung linh trên đất khô cằn.

 

Thật là khủng khiếp để được tồn tại

ý thức phải chôn vào lòng đất tối tăm.

 

Như vậy, kể như đã chết:

điều mà chúng ta lo sợ,

là linh hồn không thể lên tiếng,

trở thành một kết thúc bất ngờ,

mặt đất cứng vẫn uốn cong theo hình cầu. (*)

Và tôi phải làm gì để trở thành đàn chim

bay đụng đầu trong lùm cây thấp.

 

Các người không còn nhớ

lối về từ thế giới bên kia

Nói cho các người biết, tôi có thể kể:

bất kỳ chuyện gì nhớ lại

khi trở về từ cõi lãng quên

để tìm ra lời nói:

 

“đời tôi từ nhụy hoa 

tuôn một dòng suối lạ thường,

xanh thẳm

làm đậm màu nước biển xanh lơ.” (**)

 

(*) Mặt đất cứng uốn cong một chút.

(**) “đời tôi từ tâm điểm

        tuôn một dòng suối lớn

        xanh thẳm [chảy vào đại dương]

        pha đậm màu nước biển xanh lơ.”

 

 

KINH  SÁNG.

 

Mặt trời tỏa sáng; bên cạnh hộp thư,

cây Bạch dương thân chẻ hai,

lá xếp lớp như vảy cá.

Bên dưới, những cọng Thủy tiên trắng,

Thủy tiên bông nhỏ, hoa Cantatrice (1);

và hoa tím dại với chùm lá chìm trong bóng tối. (2)

Noah (3) nói, người bi quan không thích mùa xuân,

vì mất thăng bằng giữa nội tâm và ngoại cảnh.

Tôi lý luận cách khác – vâng, tuy chán nản bi quan

nhưng trong tâm trạng say mê (4)

cảm thông với cây đang sống, (5)

thân thể tôi thực sự uốn éo theo gốc cây chẻ hai,

hầu như yên bình,

         vào buổi chiều mưa

gần như có thể cảm thấy

nhựa cây sủi bọt nổi lên:

Noah nói,

đây là lầm lỗi của chán nản,

đồng cảm với thân cây,

trong khi trái tim hạnh phúc

thơ thẩn trong vườn như chiếc lá rơi,

Noak chỉ minh họa được một phần,

không phải toàn thể.

 

(1) Cantatrice là một loại hoa, chưa có tên trong tiếng Việt.

(2) Đám lá màu sậm của hoa Tím dại.

(3) Noah là tên con trai của tác giả.

Noah (No-ê) cũng là tên của một nhân vật trong Cựu Ước được Thiên Chúa giao nhiệm vụ đóng tàu lớn, chở gia đình và thú vật đi trốn lụt Đại Hồng Thủy.

(4) Nhưng theo ý nghĩa say mê.

(5) Gắn liền với cây đang sống.

 

 

KINH SÁNG.

 

Lạy cha muôn đời biệt tích,

lần đầu tiên khi chúng con bị xua đuổi ra khỏi địa đàng,

cha tạo ra một nơi giống y hệt nhưng mang ý nghĩa khác,

để dạy chúng con một bài học;

ngoài ra, mọi thứ đều giống nhau,

vẻ đẹp cả hai nơi đều có,

vẻ đẹp không thể thay thế,

ngoại trừ, chúng con không hiểu bài học đó là gì.

Bị bỏ rơi, chúng con đối phó nhau kiệt sức.

Tháng năm dài đen tối,

chúng con thay phiên canh giữ khu vườn,

nhũng giọt lệ đầu tiên trào ra khỏi mắt

như mặt đất sa mù bởi cánh hoa,

vài cánh đỏ sậm,

vài cánh đỏ màu thịt tươi.

Chúng con không bao giờ nghĩ 

đang học từ cha cách sống giáo điều.

Đơn thuần chúng con hiểu,

không phải bản tính người,

chỉ yêu thương vì muốn được yêu thương.

 

 

HOA KÈN BA CÁNH. (*)

 

[Lời của Hoa Kè

 

Khi tôi tỉnh dậy, thấy đang ở giữa rừng.

Giữa cảnh trí âm u (*),

nhiều mảnh trời sáng lấp ló

qua lá cành thông dày đặc.

 

Tôi hoàn toàn không hiểu;

không biết làm gì khác hơn nhìn ngắm chung quanh.

Trong khi theo dõi,

tất cả ánh sáng thiên đàng

mờ dần chỉ còn duy nhất một ngọn lửa

đốt cháy cây Linh Sam nguội lạnh.

Rồi không thể nào kéo dài

chăm chú nhìn thiên đàng mà không bị hủy diệt.

 

Có linh hồn nào

cần cái chết hiện diện,

như tôi cần sự che chở?

Tôi nghĩ, nếu tiếp tục nói hoài

sẽ tự trả lời luôn câu hỏi,

tôi sẽ chứng kiến bất kỳ thứ gì họ chứng kiến,

một cây hoa Kèn chạm vào cây Linh sam, (**)

điều gì đó kêu gọi chúng đánh đổi mạng sống –

 

Ngẫm nghĩ những gì đã hiểu.

Tỉnh dậy ngơ ngác giữa rừng;

chỉ một lúc trước, tôi không biết giọng nói của mình

nếu cho tôi giọng ấy

sẽ tuôn tràn buồn thảm

những câu nói trở thành tiếng khóc quyện vào nhau.

Thậm chí, tôi không biết mình buồn khổ

cho đến khi danh từ “buồn khổ” hiện ra,

cho đến khi tôi cảm thấy

nước mưa từ tôi tuôn trào. (***)

 

Gh chú:

Trillium: Không có tên trong tiếng Việt. Thuộc chi tộc hoa Loa kèn, hoa Huệ tây với đặc điểm hoa chỉ có ba cánh.

Nguồn: https://mimirbook.com/vi/ec57c1f4386

(*) Âm u dường như tự nhiên.

(**) Có thể hiểu ladder trong nghĩa cái thang: Một cái thang bắt qua cây Linh Sam. Và cũng có thể hiểu ladder như một loài hoa chuông kèn nhỏ. Tôi nghĩ, ladder, cây hoa Kèn, hợp lý hơn.

(***) Hoa Loa kèn hình dạng cái phểu, chứa nước mưa.

 

 

HOA  LAMIUM (*)

 

[Lời của hoa Lamium]



Đây là lối sống của người nào có trái tim lạnh lùng.

Như tôi: sống trong bóng tối, mọc qua tảng đá thờ ơ,

dưới gốc cây Phong già.

 

Nắng hầu như không chạm đến.

Đôi khi thấy ít nắng đầu xuân, nhấp nhá từ xa xôi.

Rồi lá mọc lên, che kín ánh nắng.

Tôi cảm thấy nắng lấp lánh trên lá, thất thường,

như ai đó đập vào ly thủy tinh bằng muỗng kim loại.

 

Không phải sinh vật nào

cũng đòi hỏi cường độ ánh sánh như nhau.

Một số trong chúng ta tự tạo ra ánh sáng:

chiếc lá óng ánh như lối đi chưa ai giẫm chân,

mặt hồ lóng lánh mập mờ dưới hàng phong già tăm tối.

 

Có lẽ các người đã biết điều này.

Các người và những ai có cùng ý nghĩ.

Sống vì sự thật và tình thương, hiểu theo nghĩa rộng,

yêu những điều này nghĩa là có trái tim lạnh lùng.

 

Ghi chú:

(*) Lamium không có tên Việt, thuộc họ hoa Môi.

 

 

HẠT  TUYẾT.  

 

[Lời của hạt tuyết]

 

Các người có biết tôi là th gì, sống ra sao không?

Các người đã biết tuyệt vọng là như thế nào,

thế thì, mùa đông lạnh

sẽ cho các người thêm ý nghĩa. 

 

Không mong đợi sống sót,

mặt đất lấn áp tôi.

Không mong đợi thức dậy một lần nữa,

để xác thân hồi ứng trong đất bùn,

Hãy nhớ rằng,

sau một thời gian dài

làm sao hồi phục trong ánh sáng giá lạnh

vào những ngày đầu mùa xuân.

 

Vâng, dù sợ hãi, nhưng trong số các người

vẫn khóc vì niềm vui rủi ro (*)

 

giữa cơn gió rét từ thế giới mới.

 

(*) Risk joy: niềm vui liều lĩnh, niềm vui nguy hiểm. Có niềm vui nào mà không rủi ro?

 

 

BUỔI SÁNG TRONG SUỐT.

 

[Lời của buổi sáng].

 

Tôi theo dõi các người từ lâu, đến nay đã đủ

có thể nói với các người bất kỳ cách nào tôi muốn -

 

Tôi cam chịu theo sở thích các người,

kiên nhẫn quan sát những gì các người yêu chuộng,

 

tôi chỉ có thể phát biểu qua các cách thức,

vụn vặt của địa cầu,

theo ý các người,

 

[nói qua]

những dây tua xoắn (1)

của dây hoa leo Lão trượng xanh lơ (2)

 

[nói qua]

ánh sáng

lúc bắt đầu buổi chiều –

 

các người không bao giờ chấp thuận

lời nói của tôi,

khác biệt với những gì

các người bận rộn đặt tên...

 

Miệng các người

những vòng tròn nhỏ gây kinh hãi –

 

Từ hồi nào đến giờ

tôi vẫn chiều chuộng dù các người thiếu sót,

 

nghĩ rằng sớm muộn gì các người sẽ vượt qua,

nghĩ đến vấn đề

không thể nào mãi mãi

thu hút mắt người nhìn -

 

như trở ngại của cây hoa Lão trượng

tô chùm hoa xanh dưới hiên cửa sổ.

 

Tôi không thể tiếp tục

giới hạn bản thân vào những hình ảnh (3)

do các người định đoạt,

 

chỉ vì các người tự nghĩ mình có quyền

gạt bỏ ý nghĩa của tôi:

 

Bây giờ, tôi đã sẵn sàng

cưỡng bách sự trong suốt

chống lại các người.

 

Ghi chú:

(1) Tendril là cọng dây hình xoắn, mọc trên các dây leo, có nhiệm vụ quấn và bám vào giàn hoa hoặc các cây lớn.

(2) Clematis là cây hoa leo, người Việt gọi là hoa “Ông lão”, tôi gọi là “Lão trượng” vì hoa ra trắng xóa như tóc bạc.

(3) Buổi sáng là hình ảnh do con người đặt tên. Tự thân buổi sáng chỉ là sự trong suốt, đầy không khí vô hình.

Bài thơ này dùng nhiều tứ lạ bắt nguồn từ suy nghĩ: những tên gọi không chắc gì đúng đắn với bản chất, bản tính sự vật. Hoặc từ suy nghĩ về sự bất lực của ngôn ngữ. Dùng nhân vật “buổi sáng” để chống lại quyền hạn đặt tên của loài người. “Buổi sáng” bản chất là trong suốt, vô hình. Clear Morning: Clear cũng có thể hiểu là vô ảnh, vô hình. Buổi Sáng Vô Hình (?)

 

 

TUYẾT MÙA XUÂN.

 

[Lời của tuyết]

 

Nhìn trời đêm:

Tôi chia hai sự sống với hai khả năng.

 

Tôi hiện diện với các người, bên cửa sổ,

nhìn các người phản ứng [với tuyết rơi]

Hôm qua, trăng mọc trên đất ẩm

dưới vườn.

Bây giờ đất lấp lánh như trăng,

như ánh sáng đắp lên thứ gì đã chết.

 

Bây giờ, các người có thể nhắm mắt.

Tôi từng nghe các người khóc,

luôn cả tiếng khóc từ thuở xưa, (*)

và những nỗi niềm ẩn trong tiếng khóc.

 

Tôi đã vạch trần những gì các người mong muốn:

không phải niềm tin, là sự đầu hàng

trước quyền thế sử dụng bạo lực.

 

(*) Những tiếng khóc trước khi các người khóc.

Tứ bài này cũng khác thường. Cho tuyết có hai khả năng: 1- Giải trí cho con người. Tạo cảnh nhìn qua cửa sổ. 2- Vạch trần sự thật về sự hèn yếu của loài người khi sống chung trong thế giới nghĩa là phải chịu quyền lực sai khiến.

 

 

CUỐI  MÙA  ĐÔNG.

 

Cao trên trần gian tĩnh lặng, một tiếng chim kêu

đánh thức niềm cô độc giữa các nhánh cây đen.

 

Ngươi muốn chào đời, ta cho ngươi sinh ra.

Từ bao giờ nỗi ta sầu khổ

gây phiền phức lòng ngươi hân hoan?

 

Mọc thẳng về phía trước

đâm sâu vào bóng tối và ánh sáng

cùng một lúc với cảm xúc nôn nao

 

tưởng chừng như ngươi còn mới lạ,

muốn biểu lộ thân thế

 

một cách nhanh chóng, một cách tài ba

 

ngươi không bao giờ nghĩ

phải trả giá như thế nào,

đừng bao giờ tưởng tượng

âm thanh ta nói giống bất kỳ thứ gì

ngoài trừ là một phần trong ngươi –

 

ngươi sẽ không nghe ta nói trong thế giới khác,

không nghe được rõ ràng,

không nghe từ tiếng chim kêu hay tiếng người khóc,

 

không nghe rõ âm thanh,

chỉ triền miên vang dội

đồng vọng phát thanh ý nghĩa: tạm biệt, tạm biệt –

 

dòng âm vang liên tục

gắn bó chúng ta vào nhau. (*)

 

(*) Chúng ta: mùa đông và nhánh cây.

Bài thơ này cao kỳ, ngụ ý thân phận con người trong thiên nhiên.

 

 

KINH SÁNG.

 

Xin tha lỗi nếu con nói yêu cha:

[bởi] quyền lực luôn luôn bị nghe nói dối

vì yếu đuối luôn luôn bị sợ hãi sai khiến

Con không thể yêu điều con không hiểu,

cha hầu như không tiết lộ chuyện gì:

phải chăng cha như cây Táo gai,

không thay đổi, luôn luôn mọc một chỗ,

hoặc cha như cây Mao địa hoàng, biến dạng,

thoạt tiên mọc lên cụm hồng trên con dốc sau đám Cúc,

rồi năm tới, đổi thành tím mọc trong vườn Hồng?

Cha nên hiểu, đối với chúng con chuyện đó vô dụng,

sự im lặng của cha ảnh hưởng đến lòng tin

cha phải là tất cả, vừa cây Táo gai vừa Mao địa hoàng,

vừa hoa hồng mong manh, vừa hoa Cúc bền bỉ -

[Cha im lặng khiến] Chúng con chỉ còn cách nghĩ rằng,

cha không thể nào hiện hữu.

Phải chăng cha muốn chúng con nghĩ như vậy,

phải chăng điều này giải thích

sự im lặng của buổi tinh sương,

khi đàn dế chưa cọ đôi cánh gáy,

khi bầy mèo chưa ấu gó ngoài sân?

 

 

KINH SÁNG.

 

Con hiểu được

ở cùng cha như ở với cây Bạch dương:

Con không nói với cha

bằng tâm sự riêng tư.

Chuyện giữa chúng ta đã lâu rồi quá khứ.

Hoặc trước sau chỉ là chuyện con nghĩ đơn phương?

Con có lỗi, có lỗi,

vì đã yêu cầu cha có nhân tính -

Con không nghèo túng hơn kẻ khác.

Sự vắng bóng mọi tình cảm [của cha]

cũng không phải là điều con nhất thiết quan tâm -

Vì con có thể tiếp tục

chuyện trò với hàng cây Bạch dương,

như kiếp sống trước đây:

Để chúng tái diễn chuyện tồi tệ,

chôn con với các nhà thơ phái Lãng mạn,

rồi những chiếc lá vàng hình trái tim nhọn

rơi xuồng lấp vùi con.

 

  

HOA HẢI SONG. (*)

 

[Lời của hoa Hải song.]

 

Không phải tôi, đồ ngốc, không phải hoa cùng màu,

là chúng tôi, chúng tôi-làn sóng trời xanh

như lời phê phán từ thiên đàng:

vì sao các người quý trọng lời nói của mình

khi thành đạt được điều gì

là kề cận tiếp theo sự “không có”?

Vi sao các người nhìn lên?

Để nghe âm vang như lời Chúa phán?

 

Đối với chúng tôi, các người đều giống nhau,

cô đơn, đứng trên cao,

kế hoạch đời sống ngớ ngẩn:

giống như vạn vật

các người đều đi đến nơi định sẵn,

nơi gió sẽ chôn vào đất,

người hoặc linh hồn các người

mãi mãi trên trời nhìn xuống

thấy vài hình ảnh của nước

và nghe được gì chăng?

Thấy sóng, chập chùng sóng,

và nghe tiếng chim ca.

 

Gh chúi:

(*) Scilla là một loại hoa trong họ Mãng tây (Asparagaceae.) Scilla

 Peruviana được gọi là hoa Hải Song Bồ Đào Nha.

 

 

GIÓ  NGƯỢC.   

 

[Lời của nhân vật sáng tạo nói với gió.]

 

Khi ta tạo ra ngươi, yêu thương ngươi.

Bây giờ thương hại ngươi.

 

Ta cho ngươi tất cả những gì cần thiết:

mặt đất làm giường, trời xanh làm chăn-

 

Từ khi xa rời ngươi

ta nhìn thấy rõ ràng hơn.

Đáng lẽ giờ này hồn ngươi đã mênh mông,

nhưng không phải vậy,

chỉ là thứ gì nói năng lí nhí –

 

Ta cho ngươi mọi tài năng

cho xanh lơ trong buổi sáng mùa xuân,

cho thời gian ngươi không biết sử dụng-

ngươi còn đòi hỏi nhiều hơn,

một tài năng nữa dùng cho sáng tạo khác

 

Điều gì ngươi hy vọng,

sẽ không tự mình tìm thấy trong khu vườn,

giữa những cây cỏ đang vươn lên.

Đời ngươi sống không luân chuyển như thực vật:

 

Đời ngươi sống như cánh chim bay

bắt đầu và chấm dứt trong tĩnh lặng

bắt đầu và chấm dứt, trong dạng âm vang

bay vòng cung từ cây Bạch dương đến cây Táo.

 

 

KHU VƯỜN.

 

[Lời của khu vườn.



Tôi không cách nào theo dõi một lần nữa,

khó có thể chịu đựng khi nhìn thấy cảnh này –

 

trong khu vườn, dưới làn mưa lâm râm

đôi tình nhân trẻ đang trồng

một luống đậu Hà Lan,

tưởng chừng như trước đây

chưa ai làm việc này,

chưa bao giờ đối diện

giải quyết những trở ngại lớn lao –

 

Họ không nhìn thấy họ,

trong đất cát tươi mới,

bắt tay vào làm

không chịu nhìn xa,

dãy đồi sau lưng màu xanh nhạt.

mây mù cùng với hoa –

 

Cô ấy muốn ngưng việc,

anh ta muốn làm cho xong

tiếp tục trồng –

 

Hãy xem cô ấy, vuốt má người yêu

tỏ lòng thỏa thuận,

ngón tay ướt mát mẻ mưa xuân,

trên làn cỏ mỏng, nở chùm hoa Nghệ tím –

 

ngay cả nơi đây, ngay cả khi tình yêu bắt đầu,

ngón tay cô rời khỏi mặt anh

một hình ảnh giã biệt

họ cho rằng

có thể tùy nghi xem nhẹ

nỗi buồn này.

 

 

CÂY TÁO GAI.

 

[Lời của cây Táo gai.] Kề bên nhau, không nắm tay:



Ta theo dõi hai ngươi

đi dạo vườn mùa hè –

những thứ gì không thể di động

phải học cách nhìn riêng;

Ta không cần

theo hai ngươi đi khắp vườn,

con người thường để lại

dấu tích tình cảm khắp nơi,

cánh hoa rải rác trên đường đất,

hoàn toàn trắng và vàng,

vài cánh trong gió chiều rung nhẹ;

Ta không cần theo sau

nơi hai ngươi đang đến,

vào sâu vùng hẹn hò, (*)

để biết lý do vì sao hai ngươi lánh xa,

Khi con người đam mê hay cuồng nhiệt,

để đeo đuổi một thứ gì khác

phải chăng các người chịu bỏ

tất cả những gì đang có?

 

(*) deep in the poisonous field: vào sâu vùng độc hại.

 

 

CẢM KHÁI DƯỚI ÁNH TRĂNG.

 

Đôi khi đàn ông hay đàn bà áp đặt tuyệt vọng

lên người khác,

gọi là lột trần con tim,

nói một cách khác, lột trần linh hồn -

có nghĩa trong thời điểm này họ có được hồn người.-

ngoài trời, đêm mùa hè,

cả thế giới vứt bỏ trên mặt trăng:

những nhóm hình dạng màu bạc

có thể là nhà cửa hoặc cây cối,

một khu vườn hẹp nơi con mèo ẩn thân,

lăn lộn trong đất bụi,

hoa Hồng, cây Phòng phong, và trong âm u,

một mái vòm như nóc tòa nhà quốc hội (*)

dưới ánh trăng hóa thành hợp kim màu vàng,

chỉ hình dạng không rõ chi tiết,

trông hoang đường, chưa thấy bao giờ (**) 

linh hồn tràn đầy lửa thật sự là ánh trăng,

dù phản chiếu từ một nguồn khác, (***)

tóm lại vẫn sáng như trăng sáng:

dù là khối đá hoặc không phải,

mặt trăng vẫn trước sau

là một vật gì đang sống .

 

Ghi chú:

(*)  Capitol ở Washington.

(**) Archetype: Nguyên Mẫu. Hình ảnh dùng làm khuôn mẫu, mô hình.

(***) Mặt trời.

 

 

THÁNG TƯ.


[Lời của tháng Tư]


Không ai tuyệt vọng bằng tôi tuyệt vọng –

 

Các người không thuộc vào khu vườn này

nghĩ như vậy,

bộc lộ ra mặt vẻ khó chịu:

người đàn ông đang giẫy cỏ hướng về toàn thể cánh rừng,

người đàn bà đi khập khiễng, từ chối thay quần áo,

không chịu gội đầu.

 

Có lý do gì tôi phải quan tâm

nếu các người cùng nhau trò chuyện?

Nhưng tôi muốn nói, các người nên biết

tôi kỳ vọng tốt đẹp hơn

ở hai sinh vật được ban cho trí khôn:

nếu không,

các người thực sự sẽ chăm sóc cho nhau

ít ra các người phải hiểu

sự đau khổ phân chia giữa các người,

cho tất cả nhân loại,

nhờ vậy, tôi nhận biết các người

như màu xanh thẳm

đánh dấu cây Hải song dại,

màu trắng đánh dấu hoa rừng tím. (*)

 

(*) Wood violet: Một loại hoa tím dại có bông lớn màu xanh đậm hoặc tím. Thường thấy ở miền đông Hoa kỳ. Dịch cận nghĩa là: Làm trắng hoa rừng tím. Hoặc trắng hoa rừng tím. Nhưng hầu như không tạo được ý nghĩa. Tôi dịch theo mạch văn, lập lại tứ thơ “đánh dấu” như: as white marks the wood violet.


 

HOA TÍM.

 

[Lời của hoa tím]

 

Bởi vì trong thế giới [loài hoa] chúng tôi

luôn luôn ẩn giấu một điều gì,

nhỏ và trắng,

nhỏ và được gọi là tinh khiết,

vì vậy, chúng tôi không buồn rầu như thầy,

thưa bậc thầy của đau khổ;

thầy không mất mát nhiều hơn chúng tôi,

dưới cây Táo gai,

cây Táo thăng bằng bưng khay ngọc trai:

điều gì đã đưa thầy đến đây

ai sẽ dạy thầy

quì xuống khóc

hai bàn tay vĩ đại siết chặt nhau

trong tất cả hiểu biết lớn lao thầy sở hữu

không có điều gì thuộc về bản tính linh hồn,

vốn bất tử:

tội nghiệp Thượng Đế buồn rầu,

vì không bao giờ có

hoặc không bao giờ mất.

 

 

CỎ DẠI. (*)

 

[Lời của cỏ dại

Những thứ gì

khi sinh vào đời không được đón nhận

sẽ xem như rối loạn, bừa bãi –

 

Nếu các người quá sức ghét bỏ tôi

đừng bận tâm đặt tên làm gi:

các người có cần chăng

thêm một danh từ dơ trong ngôn ngữ,

nói một cách khác

đổ tất cả lỗi lầm

vào thời còn bộ lạc

kể cả việc đặt tên -

 

như chúng ta đều biết,

nếu tôn thờ một Chúa

chỉ cần một kẻ thù (**) –

 

Tôi không phải là kẻ thù.

Chỉ là một thủ thuật để các người không chú ý  (***)

những gì đang xảy ra ngay đây trong vườn này,

như một điển hình nhỏ của thất bại.

Hầu như mỗi ngày

đều có một bông hoa đẹp tàn héo

các người không thể nghỉ ngơi

cho đến khi tìm thấy nguyên nhân,

nghĩa là bất cứ điều gì còn lại,

bất cứ điều gì xảy đến

để giúp hoa tươi tốt hơn

lòng đam mê cá nhân –

 

Điều đó không có nghĩa

sẽ tồn tại mãi mãi trong thế giới thực tế.

Nhưng tại sao phải thừa nhận

khi các người có thể tiếp tục

làm những gì các người vẫn làm,

than khóc và đổ lỗi,

luôn luôn đi đôi với nhau.

 

Tôi không cần các người khen thưởng

để sống sót.

Tôi đến đây trước các người,

trước khi có khu vườn.

Và tôi sẽ ở lại đây

cho đến khi chỉ còn mặt trời và mặt trăng luân chuyển,

biển và đồng hoang mênh mông.

 

Tôi sẽ chiếm giữ vùng đất này. 

 

(*) Witchgrass là một loại cỏ dại mọc thành bụi rậm trong mùa hè. Có hoa nở trên đỉnh từ cánh lá hẹp và dài. Có khả năng mọc cao khoảng 30 inches. Witchgrass chưa có tên trong tiếng Việt. Chữ Witch có nghĩa phù thủy. Có thể gọi là “cỏ Phù thủy” chăng?

(**) Nếu các người tôn thờ một Chúa / các người chỉ cần một kẻ thù. Câu này tối nghĩa. Tôi không nối kết được thi cảnh của tứ thơ vào toàn bài.

(***) Chỉ là một mưu mẹo để phớt lờ.

 

 

HOA HUỆ CỦA JACOB.

 

[Lời của hoa Lan chuông.]


Bị mắc kẹt trên mặt đất,

phải chăng các người cũng muốn lên thiên đàng?

Tôi sống trong khu vườn của một phụ nữ.

Thưa bà, xin bà thứ lỗi;

đợi chờ làm tôi phai nhạt lòng biết ơn.

Tôi không phải những gì bà mong muốn.

Nhưng dường như đàn ông và đàn bà

khao khát nhau,

tôi cũng khao khát kiến thức thiên thai –

và bây giờ nỗi sầu khổ,

[là] một cọng cây trần trụi

vươn lên cửa sổ hiên nhà.

Đến đỉnh cây, thấy gì?

Một hoa nhỏ màu xanh như ngôi sao.

Không bao giờ rời thế giới!

Đây phải chăng là ý nghĩa của nước mắt?

 

(*) Ladder: Tên của loài hoa thuôc dòng hoa Linh Lan (còn gọi là hoa Huệ). Vì dùng để trang trí trên các bệ bàn thờ nên được gọi là Ladder to Heaven (thang bắt lên thiên đàng.) Những bông hoa hình chuông nhỏ mọc từ cuốn mọc lên đều đặn như những bậc thang.

 


KINH SÁNG.

 

Cha có muốn biết con dùng thời giờ làm gì không?

Con đi dạo trước sân,

giả vờ như đang dọn cỏ.

Chắc cha biết con chưa bao giờ làm việc này,

quì xuống, nhổ từng chùm Ba lá từ luống hoa:

thật ra, con đang tìm thêm can đảm,

tìm vài bằng cớ đời con sẽ đổi thay,

cho dù tốn nhiều thời gian,

kiểm soát từng chùm cỏ

tìm chiếc lá tượng trưng, (*)

và mùa hè sắp chấm dứt,

lá xanh đã thay màu,

thông thường những cây yếu sẽ chết trước,

hấp hối bật rực rỡ màu vàng,

trong lúc vài con chim đen trình tấu

điệu nhạc giờ giới nghiêm.

Cha có muốn xem bàn tay của con?

Bây giờ trống trơn như dấu hiệu ban đầu. (**)

Hoặc từ thuở nào vẫn là quan điểm

đời đổi thay không dấu hiệu báo tin?

 

(*) Cách bói lá.

(**) Bói chỉ tay.

 

 

KINH SÁNG.

 

Cha nghĩ gì về trái tim con

sao phải gây cho nó khổ đau nhiều lần

như một chuyên gia trồng trọt thử nghiệm

những loại cây mới?

Xin cha thực tập trên những thứ khác:

làm sao con có thể sống trong các thuộc địa,

nơi cha chỉ định,

nếu cha áp đặt sự buồn phiền cách ly,

ngăn chia con với đồng loại lành mạnh:

Cha không thể làm như vậy trong khu vườn này,

như tách rời một hoa Hồng bệnh hoạn;

để nó phất phơ gần gũi những lá nhiễm trùng

vào các cánh hoa khác,

và đám bọ nhỏ nhảy từ cây này sang cây kia,

một lần nữa xác định

con là sinh vật thấp hèn nhất của cha,

sắp sau loài bọ sinh sôi đông đảo

và sau cả hoa Hồng –

Cha ơi, với tư cách đại lý của cô đơn,

tối thiểu cha xoa dịu cho con mặc cảm tội lỗi;

xóa bỏ những dấu thánh (*) tạo nên biệt lập;

ngoại trừ đây là ý cha muốn

cho con tái diễn như vậy suốt đời,

như đã lầm lỡ xảy ra cả một thời thơ ấu,

hoặc nếu không phải như thế,

thì dưới trái tim yếu đuối của mẹ con,

hoặc nếu không phải như thế,

thì trong giấc mơ,

từ thuở ban đầu con người sẽ không bao giờ chết.

 

(*) Stigma: Theo truyền thống của Thiên Chúa giáo, đây là các dấu vết tương ứng với các vết thương trên cơ thể của Chúa Giê-Su khi bị đóng đinh. Những ai có dấu vết tương tựa được xem như người Chúa tuyển chọn. Thi sĩ ngụ ý sự tách rời và cô lập những người theo đạo ra khỏi nhân loại.


 

CA KHÚC.

 

Như trái tim được chăm sóc,

hoa Hồng dại

đỏ màu máu tươi

bắt đầu nở trên cành thấp nhất,

được che bởi bóng mát

từ bụi cây rậm rạp:

hoa Hồng trong tối tăm

như trái tim trên nền đen cố định,

trong khi những hoa nở trên cao

mau héo hoặc chóng tàn;

hoa trong tối sống sót

đơn thuần nhờ hoàn cảnh

làm màu hoa đậm thêm.

Nhưng John không đồng ý,

anh nghĩ

nếu đây không phải là bài thơ

chỉ là khu vườn thật,

như thế hoa Hồng đỏ

không cần phải giống một thứ gì,

không phải phấn hoa

cũng không phải trái tim trong bóng tối,

mọc trên mặt đất

tự thúc đẩy hoa

một nửa đỏ màu nâu hạt dẻ

một nửa đỏ màu thắm quả gấc.

 

 

HOA ĐỒNG NỘI.

 

[Lời của hoa ở đồng quê.]

 

Các người đang nói gì?

Muốn đời sống vĩnh cửu?

Thật ra các người có bị ép buộc suy nghĩ như vậy không?

Dĩ nhiên,

đừng nhìn chúng tôi, đừng nghe chúng tôi,

da các người đang rám nắng,

dính phấn hoa Mao lương vàng:

tôi đang nói với các người,

các người nhìn chằm chặp [tìm kiếm] qua các cành cỏ cao

làm bàng hoàng câu chuyện huyên náo ngắn ngủi (*) -

Ôi, linh hồn! linh hồn!

đã đủ chưa nếu chỉ nhìn nội tâm?

Xem thường con người là một chuyện,

nhưng tại sao xem thường tâm sự (**) của cánh đồng,

ánh mắt chăm chú vượt khỏi ngọn Mao lương dại

các người nhìn nơi nào?

Ý tưởng lệch lạc về thiên đàng: bất biến.

Tốt đẹp hơn trần gian?

Làm sao các người biết,

khi không ở nơi này cũng không ở nơi kia,

chỉ đứng giữa chúng tôi?

 

(*) “I’am talking to you, you staring through bars of high grass shaking your little rattle,” (Tôi đang nói với các người....câu chuyện huyên náo ngắn ngủi,) câu thơ này tôi không chắc đã hiểu rõ ý tác giả vì không thể tự thấy thi cảnh một cách tự tin. Bạn đọc cứ tùy nghi giải mã trong bản Anh ngữ bên dưới.

(**) Expansive: Thố lộ tâm tình.

 

 

CÂY ANH TÚC ĐỎ.

 

[Lời của cây Anh túc.]


Điều kỳ diệu

là không có

trí tuệ.

Tình cảm:

Ô, tôi có;

nó điều khiển tôi.

Tôi có chúa trên thiên đàng

là mặt trời,

tôi nở hoa vì chúa,

hiến dâng con tim đang bừng lửa,

lửa như chúa trời hiện thân.

Hạnh phúc có thể là gì

nếu không phải con tim?

Ô, các anh chị em,

thuở xa xưa, đã có lần,

phải chăng các người đã từng giống tôi,

trước khi được làm nhân loại?

Phải chăng các người

đã tự nguyện

hiến thân ít nhất một lần,

rồi không bao giờ

dâng hiến lần nữa?

Nhân danh sự thật

tôi phê phán

cách sống của các người hiện nay.

Tôi nói vì tôi đang héo úa.

 

 

CỎ BA LÁ. (*)

 

[Lời của cỏ Ba lá.]

 

Điều gì giúp chúng tôi mọc rải rác nhiều nơi,

các người cho là hiện tượng may mắn

mặc dù như vậy,

chúng tôi,

chỉ một loại cỏ dại,

cần nhổ tận gốc -

 

có lý do nào

các người lưu giữ

một tua dây leo

của thứ cỏ mà các người muốn tiêu diệt?

 

Bất kỳ nơi nào

nếu chúng tôi hiện diện

lớn mạnh quá nhiều,

sẽ không được sinh sôi nảy nở,

phải chăng vì dịch vụ giữ vườn sạch sẽ?

 

Các người nên tự hỏi mình

những câu hỏi như vậy,

đừng hỏi chúng tôi, những nạn nhân.

Các người nên biết

khi đứng giữa chúng tôi mà tự đắc huênh hoang

tôi nghe ra hai cách nói,

một từ thâm tâm các người,

hai từ hành động bàn tay nhổ cỏ.

 

 

KINH SÁNG.

 

Không chỉ đơn thuần mặt trời

mà chính trái đất cũng chiếu sáng,

lửa trắng bốc lên từ dãy núi nổi bật

và con đường phẳng lung linh buổi sớm mai:

Có phải chỉ dành riêng cho chúng con

để thúc đẩy sự trả ơn?

hoặc do cha khuấy động,

bất lực không làm chủ bản thân

trước trái đất hiện hữu?-

Con xấu hổ

vì những điều đã nghĩ,

cha tránh xa chúng con,

dùng chúng con vào cuộc thử nghiệm:

thật là cay đắng khi trở thành động vật thí thân,

thật là chua chát.

 

Thân hữu quí mến,

Bạn đời thân ái,

phải chăng điều làm cha kinh ngạc nhất

nằm trong cảm nghĩ cha chọn lựa,

giữa sự lộng lẫy của trần gian và điều làm cha hài lòng?

Đối với con,

luôn luôn niềm vui chính là sự kinh ngạc.

 

 

TRỜI VÀ ĐẤT.

 

Nơi đất chấm dứt, trời bắt đầu.

Nơi đất bắt đầu, trời chấm dứt.

Viền lên ranh giới, một dải xanh lam;

bên dưới, một dải xanh lá cây và vàng,

rồi xanh lá cây và hồng đậm.

 

John đứng ở đường chân trời:

muốn đất trời cùng một lúc,

muốn tất cả trong một lần.

 

Ở hai cực dễ thấy dễ hiểu.

Ở chính giữa bối rối mơ hồ.

Giữa mùa hè - chuyện gì cũng có thể xảy ra.

 

Nghĩa là: đời sống không bao giờ chấm dứt.

 

Làm sao tôi có thể để chồng

đứng giữa vườn mơ mộng

những điều như vậy,

tay anh cầm bừa cào, ra vẻ đắc thắng

chuẩn bị tuyên bố điều khám phá này

 

như lửa từ mặt trời mùa hè

thực sự bị hoàn toàn trì hoãn

bởi những cây Phong cháy lá

mọc ven rào khu vườn.

 

 

NGƯỠNG CỬA.

 

[Lời của ngưỡng cửa.]


Tôi muốn ở đây như vẫn từng ở đây

cho dù thế giới chưa bao giờ yên tĩnh,

không phải giữa mùa hè mà trước đó

khi bông hoa đầu tiên thành hình,

trong khoảnh khắc như vậy [ngưng đọng]

không có gì trở thành quá khứ -

 

không phải giữa mùa hè, say xỉn,

chỉ là cuối mùa xuân,

cỏ mọc chưa cao dọc theo hàng rào,

nụ hoa Uất kim hương vừa chớm nở –

 

Như một đứa trẻ lai vãng nơi ngưỡng cửa,

theo dõi người ta,

những người đi trước,

tay chân thủ thế,

đề phòng thất bại của kẻ khác,

đám đông bước ngập ngừng

 

đứa trẻ với lòng tin mãnh liệt

về sức mạnh sắp xảy ra

chuẩn bị phá tan sự nhu nhược,

không chịu thua kẻ bất tài,

 

ngay lập tức thời gian trước khi hoa nở,

 

thời kỳ của chủ quyền

trước khi tặng phẩm xuất hiện,

trước khi sở hữu.

 

(*) Hai đoạn cuối trong bài thơ cần được điều chỉnh, khi đứa trẻ xuất hiện như một ẩn dụ khó hiểu. Tôi không nắm bắt được ý tác giả về dân chúng đối đầu với quyền lực hoặc trên bình diện lớn hơn: tranh chấp thuộc địa, hoặc đây là sự phản  kháng của con người đối với siêu nhiên, hoặc cả ba đều không phải. Cái ngưỡng cửa phải chăng là chứng nhân của thời đại?

Tôi không tưởng tượng được thi cảnh của đoạn thơ này, thành thử mù mờ. Mà không tưởng tượng được vì không hiểu rõ.



GIỮA MÙA HÈ.

 

[Lời của mùa hè.]


Làm sao tôi có thể giúp các người

khi các người muốn nhiều thứ khác biệt -

vừa ánh nắng vừa bóng mát,

vừa âm u ẩm ướt vừa nóng nực khô khan –

 

Hãy lắng nghe chính bản thân, đang mâu thuẫn -

 

Rồi các người tự hỏi

vì sao tôi thất vọng về các người,

các người nghĩ rằng

có điều gì kết hợp các người thành một khối –

 

không gian tĩnh lặng giữa mùa hè

rối loạn bởi ngàn tiếng nói

 

mỗi người mỗi kêu gào

có người cần thiết, có người khẩn thiết

 

rồi vì ích lợi

liên tục bóp cổ nhau

công khai giữa đời sống - (*)

 

Để làm gì?

Giành giựt không gian và không khí?

Giành đặc quyền đơn phương làm người

dưới mắt thiên đàng?

 

Các người không được sắp đặt để trở thành duy nhất.

Chỉ là hóa thân đa dạng của tôi,

 

không như những gì các người đã biết, đã thấy

khi tìm trong bầu trời tươi sáng trên cánh đồng,

linh hồn vốn phiêu bồng

nay bị cố định như thiên văn kính

nhìn phóng đại bản thân –

 

Tại sao tôi phải tạo ra các người

khi tôi chỉ muốn giới hạn mình

trong ký hiệu hoàng đạo,,

tinh tú, lửa và đam mê?

 

(*) in the open field: Trong cánh đồng trống. Trong phạm vi công khai. Trong đời sống rộng rãi.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Có một thời tin tưởng vào cha; con trồng cây Sung.

Nơi đây, tại Vermont,

tiểu bang không có mùa hè.

Như một thử thách: nếu cây này có thể sống,

nghĩa là cha có thật.

 

Theo lý luận này, cha không hiện hữu.

Hoặc chỉ sinh tồn những nơi khí hậu ấm áp hơn,

như Sicily hâm hấp, Mexico hoặc California,

nơi trồng cây Mơ khác thường và cây Đào mảnh dẻ.

Có lẽ, họ trông thấy mặt cha ở Sicily,

nơi đây, chúng con hầu như chưa hề thấy 

gấu quần của cha.

Con phải tự tập kỷ luật

để có thể chia sẻ cà chua với John và Noah.

 

Nếu có công lý ở thế giới nào khác,

những ai như con, bản tính bắt sống đời kiêng khem,

nên nhận phần lớn nhất của mọi thứ,

mọi vật thể của đói khát, sân si ca ngợi cha.

Không ai ca tụng cha nhiệt tình hơn con,

với ao ước giảm bớt đau khổ,

hoặc xứng đáng hơn,

được ngồi bên tay phải cạnh cha,

nếu công lý có thật, (*)

sẽ can dự [chận đứng] sự héo tàn,

cây Sung sẽ không chết,

không cần dời qua nơi khác.(**)

 

(*) Nếu việc này xảy ra.

(**) Nơi có khí hậu phù hợp cho cây Sung được sống.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Sự vắng mặt của cha lâu ngày,

cho phép con sử dụng mặt đất,

cha dự tính sẽ thâu lợi từ cuộc đầu tư.

Con phải báo cáo việc này đã thất bại,

về căn bản liên quan đến cây cà chua.

 

Con nghĩ mình được khuyến khích để trồng cà.

Nếu con là cha,

sẽ giữ lại những cơn mưa lớn,

những đêm giá lạnh nhiều lần qua đây,

trong khi những vùng khác được 12 tuần hè nắng ấm.

Tất cả các việc này thuộc về cha:

mặt khác, con gieo hạt,

theo dõi chồi non

khởi đầu như chấp cánh mọc xé đất,

rồi tim con sầu bi bởi bệnh Nấm sương,

những đốm đen lan tràn nhanh chóng.

Con nghi ngờ nếu cha có trái tim,

nói theo thuật ngữ mà chúng con được biết.

Cha không phân biệt giữa chết và sống,

vậy thì ai là người không bị ảnh hưởng

bởi những điềm báo trước quá mơ hồ,

cha có thể không biết

chúng con chịu đựng nhiều khổ tâm,

chiếc lá bị đốm,

đám lá Phong đỏ rụng rơi

dù chỉ mới tháng Tám,

rồi bóng tối đến sớm:

con phải chịu trách nhiệm cho những dây cà.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Nhiều hơn cha yêu con,

rất có thể, cha yêu thú vật trong đồng hoang,

thậm chí, có thể chỉ yêu cánh đồng,

tháng Tám rau Diếp dại và hoa Cúc mọc từng khóm:

Con hiểu.

Tự so sánh bản thân với bông hoa,

tình cảm của chúng nhỏ nhoi không cò vấn nạn,

ngoài ra đối với cừu trắng, thật ra màu xám lợt:

Con thích hợp là kẻ duy nhất ca ngợi cha.

Vật thì tại sao phải giày vò con?

Con tìm hiểu cây Cúc Bé vàng, cây Mao lương

để bảo vệ cho đàn gia súc không bị trúng độc:

Phải chăng đau khổ là món quà

cho con ý thức cần phải có cha,

dường như, cần có cha để tôn thờ,

hoặc cha đã bỏ rơi con vì thích đồng cỏ,

những cừu non khắc kỷ (*)

đổi thành màu bạc trong hoàng hôn

những đợt sóng Cúc dại và rau Diếp

sáng xanh nhạt và xanh đậm,

vì cha đã biết

bề ngoài y phục (**) của cha như thế nào.

 

(*) Cụm từ khắc kỷ đi với cừu non có lẽ ngụ ý những người sống theo kỷ luật đạo giáo, thường được ẩn dụ trong “con chiên.”

(**) Raiment: ý phục, áo quần. Ngụ ý bề mặt bên ngoài của Thượng Đế.

 

 

HOA CÚC.

 

[Lời của hoa Cúc.]

 

Nói đi: nói những gì các người đang nghĩ.

Khu vườn không phải là thế giới thật.

Máy móc mới là thế giới chính.

Hãy thành thật nói thẳng vào mặt

những gì bất kỳ kẻ ngu nào cũng hiểu:

xa lánh chúng tôi là điều hợp lý,

để chống lại nỗi nhớ thương.

Không có gì hiện đại:

trong âm thanh gió khuấy động cánh đồng hoa Cúc:

nó không làm cho trí tuệ sáng bừng.

Nhưng trí tuệ muốn được sáng ngời, rõ rệt,

như máy móc sáng trưng,

mà không cần phát triển chiều sâu,

chẳng hạn, như rễ cây.

Thật rất cảm kích

khi thấy các người thận trọng

tiến vào ranh giới cánh đồng

vào sáng sớm,

khi không có ai trông thấy các người.

Càng đứng lại lâu ở ranh giới

hình như các người càng bồn chồn.

Không ai muốn nghe cảm tưởng của thế giới thiên nhiên:

các người sẽ bị cười chê một lần nữa,

sẽ bị khinh bỉ phủ lên.

Còn những gì các người thật sự nghe được sáng nay:

Hãy suy nghĩ kỹ trước khi kể lại cho người khác biết

ai nói và những gì đã nghe từ cánh đồng.

 

 

CUỐI MÙA HÈ.

 

[Lời của mùa hè.]

Sau khi mọi chuyện đã xảy ra cho tôi,

“hư không” (*) xuất hiện.

 

Ý thích nào cũng có giới hạn,

tôi có hình hài riêng –

 

Về mặt này tôi không giống các người,

không được giải thoát vào thân thể khác,

 

Tôi không cần

lớp vỏ bên ngoài che chở -

Để quảng cáo

những sáng tạo từ cảm hứng kém cỏi của tôi,

các người là trò giải trí, cuối cùng, chỉ là phù du; (*)

sau hết, các người giống tôi quá ít

khó làm tôi hài lòng.

 

Rồi các người cương quyết –

muốn trả hết khi qua đời,

tất cả trả một phần cho cát bụi,

phần khác làm quà lưu niệm,

như đã có lần được thưởng vì công lao,

người viết được trả bằng tiền bạc,

người chăn chiên được trả bằng lúa mạch,

kể cả trái đất sẽ không trường tồn,

huống chi ít nhiều vật chất phù vân.

 

Nếu các người mở mắt ra

sẽ thấy tôi,

sẽ thấy hư vô của thiên đàng

phản chiếu trên địa cầu,

đất đai lại bị bỏ trống,

không còn đời sống,

tuyết phủ đầy –

 

Rồi ánh sáng tinh nguyên

không còn ngụy trang dưới dạng vật chất.

  

(*) Void: Trống trải. Không có gì.

(**) Curtailment: Rút ngắn. Cắt giảm.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Con không còn tự hỏi cha đang ở đâu.

Đang ở trong vườn; đang ở với John,

giữa đất cát, lơ đãng, cầm cái xẻng xanh.

Đây là cách anh ấy làm vườn:

mười lăm phút nỗ lực làm hết sức,

mười lăm phút trầm tư sững sờ.

Đôi khi con ở cạnh bên làm chung một số việc,

nhổ cỏ, tỉa bớt rau Diếp;

đôi khi con theo dõi từ hiên nhà ở mé đầu vườn

cho đến lúc hoàng hôn chiếu ánh đèn đầu tiên

lên đám hoa Loa kèn:

suốt thời gian đó,

bình an không bao giờ rời bỏ anh ta.

Nhưng nó tuôn qua con

không như chất bổ bông hoa giữ lại

mà như ánh sáng chói lòa

xuyên qua thân cây trơ trụi.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Cho dù cha đã hiện ra với ông Môisen,

nhưng vì con cần có cha,

xin cha hiện ra với con,

không nhất thiết phải thường xuyên,

tuy nhiên, thỉnh thoảng.

Chủ yếu, con sống trong bóng tối.

Có lẽ, cha muốn tập luyện con

để phản ứng với chút vui sướng ít ỏi. (*)

Hoặc giống như nhà thơ,

phải chăng cha bị thúc đẩy bởi tuyệt vọng,

phải chăng sầu đau khiến cha bộc lộ bản tính?

Chiều hôm nay,

trong thế giới thực tế

mà cha thường đóng góp bằng im lặng,

con leo lên ngọn đồi thấp

phía trên hàng cây Việt quất hoang,

nhìn xuống tưởng tượng,

như những lần đi bộ khác:

Phải chăng con đã đi đủ sâu để cha thương hại,

như đôi khi cha thương hại những kẻ khổ đau,

thiên vị những ai có biệt tài thần học?

Như cha đã biết, con không nhìn lên.

Vậy thì, cha phải xuống với con:

dưới chân con, không phải đám lá Việt quất nhớp nháp,

là bản thân cha như lửa,

cả cánh đồng bốc cháy,

xa xa, mặt trời treo lững lờ -

Không còn là đứa trẻ;

Con có thể tận dụng những ảo tưởng.

 

(*) the slightest brightening: tia sáng yếu ớt nhất.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Cha tưởng rằng chúng con không biết.

Những trước đây chúng con đã biết,

trẻ con cũng biết những điều này.

Bây giờ, cha đừng bỏ đi –

Chúng con đã quen sống

nói dối để thỏa hiệp với cha.

Nhớ lại ánh nắng mùa xuân sớm,

trên bờ đá che phủ bởi hàng dừa cạn (*)

Nhớ lại đã nằm dài trên đó, tay vịn vào thân anh trai.

Bây giờ, đừng bỏ đi;

Chúng con từ chối trí nhớ để giải khuây cha.

Bắt chước cha, đọc lại những điều răn trừng phạt.

Con không nhớ hết, chỉ nhớ một ít:

dối trá bắt đầu bằng xem thường.

Nhớ lại những chi tiết,

hoa mọc dưới gốc cây Táo gai,

những bông chuông trên cây Hải song.

Chưa hết, nhưng đủ để biết cha hiện diện:

ai khác có lý do tạo ra những nghi ngờ

giữa anh trai và em gái

chỉ là kẻ hưởng lợi,

vì vậy chúng con cuộn mình vào cô đơn?

Ai khác đố kỵ mối ràng buộc giữa anh em

khi nói rằng không phải trần gian

mà là thiên đàng

chúng con đang đánh mất?

 

(*) Tên một loại dừa có bóng mát. Con gọi là Periwinkle, tên Việt là Hải đằng, Dương giác. Nếu là dây leo, gọi là Trường xuân.

 

 

BÓNG TỐI LÚC CÒN SỚM.

 

[Lời của bóng tối]

 

Sao các người dám nói

trái đất nên tặng tôi niềm vui?

Mỗi thứ sinh ra trên đó đều cho tôi gánh nặng;

Làm sao có thể thành công với tất cả các người.

 

Các người muốn chỉ đạo,

muốn cho tôi biết

ai trong các người là bậc cao nhân, (*)

ai giống tôi nhất.

Các người nêu ra điển hình

một đời sống tinh khiết.

một chuyện xa vời các người thực hiện khó khăn –

 

Làm sao các người hiểu được tôi

khi không thể hiểu chính mình?

Trí nhớ của các người thiếu hiệu quả,

không thể hồi tưởng chuyện sâu xa.

 

Đừng bao giờ quên

các người là con cái của tôi.

Các người bớt đau khổ vì quây quần có nhau,

nhưng vì trót sinh ra,

vì cuộc sống đòi hỏi

các người phải xa rời tôi.

 

(*) có giá trị nhất.

 

 

MÙA GẶT.

 

Khi nghĩ về ngươi trong quá khứ, ta cảm thấy buồn rầu –

 

Nhìn ngươi, mù quáng bám chặt vào đất cát

như thể bám vào vườn nho trên trời

trong khi đất đai quanh ngươi đang bốc lửa –

 

A, những bạn nhỏ, các ngươi thật là vụng về:

Bám vào đời sống (*)

vừa là tặng phẩm vừa là sự khổ đau.

 

Nếu những gì khiến ngươi sợ chết

trừng phạt nặng nề hơn chết,

thì chết không còn phải đáng sợ:

 

Bao nhiêu lần ta phá hủy sự sáng tạo

để dạy dỗ ngươi

đây là hình phạt:

 

Ta chỉ cần làm một cử chỉ

sẽ tạo ra ngươi đúng lúc

và cho lên thiên đàng.

 

(*) Việc này vừa là quà tặng vừa là sự khổ đau.

 

 

HOA HỒNG TRẮNG.

 

[Lời của hoa hồng trắng.

Có phải đây là trái đất?

Như vậy, tôi không thuộc về nơi này.

 

Các người là ai trong cửa sổ đèn sáng, (*)

lúc này bị che khuất bởi cành lá phất phơ

từ cây “tạm cư” ? (*)

Có thể nào các người sống sót nơi tôi không thể tồn tại

ngoại trừ mùa hè đầu tiên?

 

Suốt đêm những nhánh cây lêu khêu

chuyển động xào xạc gần cửa sổ sáng đèn.

Giải thích đời sống của tôi;

còn các người chẳng làm gì cả,

 

Mặc dù tôi gọi các người trong đêm:

Tôi không giống các người,

thân thể tôi chính là giọng nói,

không thể  tan vào trong lặng thinh –

 

Rồi đến buổi sáng lạnh lẽo

trên mặt đất đọng đầy bóng đen

vang vọng tiếng nói tôi trôi dạt,

cái trắng từ từ nhập vào cái đen (**)

 

như thể sau cùng các người đưa ra tín hiệu

thuyết phục tôi cũng có thể sống ở đây

hoặc chỉ cho tôi biết

các người không phải ánh sáng

mà tôi đã kêu cứu

nhưng là thứ gì có bóng tối sau lưng.

 

(*) Wayfaring tree thuộc vào dòng Elderberry (cây Cơm cháy). Wayfaring tree là tên gọi chung. Trong bài thơ này, tác giả viết Wayfarer tree thay vì Wayfaring tree, tạo ra nghi vấn: phải chăng tác giả có ngụ ý khác hơn cây Cơm cháy? Wayfarer có nghĩa là người bộ hành. Wayfarer tree là danh từ kép, có lẽ do tác giả tạo ra, có nghĩa: cây bộ hành? Không có loại cây này trong thực tế, như vậy phải là một ngụ ý: Khung cửa nơi con người cư ngụ bị che lấp bởi cành lá của những cây thay nhau mọc lên rồi tàn rụi theo thời gian (?)  Thật khó bói ý của thi sĩ. Tôi nghĩ, tác giả muốn nói đến sự tạm bợ của  bụi cây hoa hồng trắng mọc bên cửa sổ. Tôi phân vân gọi: cây du hành, cây tạm dung, cây tạm cư, cây lữ khách (?)

(**) Ánh sáng từ từ nhập vào bóng tối.

 

 

HOA IPOMOEA. (*)

 

[Lời của hoa Ipomoea.]

 

Kiếp trước tôi đã phạm tội gì,

mà kiếp này tội của tôi là đau khổ,

không bao giờ được phép trở lại trời,

không bao giờ (hiểu theo mọi ý nghĩa)

cho phép tôi phục sinh cuộc sống,

thương tích trên cây Táo gai,

tất cả vẻ đẹp trần gian

hình phạt tôi như là của các người –

Cội nguồn tôi đau khổ,

vì sao các người tìm thấy từ tôi

những bông hoa như bầu trời,

ngoại trừ đánh dấu tôi là một phần của chủ nhân:

Tôi là màu áo choàng ông mặc,

Da thịt tôi hiến dâng

thành hình vinh quang cho ông.

 

(*) Hoa Ipomoea không có tên gọi trong tiếng Việt. Loại hoa này thuộc vào họ Connvolvulaceae, gọi là dòng Bìm Bìm.

Ipomoea quamoclit là hoa Tóc tiên. Ipomoea arborescens là hoa Lộng lẫy buổi sáng (Morning glory.) Ipomoea purpurea là cây hoa cao tên Lộng lẫy buổi sáng (Tall morning glory.) Ipomoea imperati là hoa Lộng lẫy biển buổi sáng (Beach morning glory.) Ngoài ra còn có những tên gọi như Hoa trăng (Moonflower), hoa Bìm bìm (Bindweed.) ... Tác giả không xác định rõ Ipomoea thuộc chi nhánh hoa nào.

(**) Bài thơ này khó hiểu vì ý thơ súc tích mà lời thơ rời rạc. Ví dụ câu “wound in the hawthorn,” rơi vào giữa bài thơ, không thấy sự liên hệ trong mạch văn. Sự thiếu mạch lạc giữa các tứ thơ khiến cho người đọc khó nắm bắt, và dịch thuật gặp nhiều khó khăn.

Có lẽ vì không hiểu rõ Ipomoea là cây hoa gì? Có liên hệ gì với cây Táo gai?

Tôi sử dụng bản dịch trong tiếng Bồ Đào Nha của Nelson Santander trên mạng, làm liên văn bản để so sánh với tiếng Việt. Rồi đúc kết thành một bài dịch ý, bên dưới:

https://singularidadepoetica.art/2019/12/28/louise-gluck-ipomoea/

 

 

HOA IPOMOEA.

 

Kiếp trước tôi đã phạm tội gì,

mà kiếp này tội của tôi là đau khổ,

không bao giờ được phép trở lên trời,

không bao giờ (hiểu theo mọi ý nghĩa)

cho phép tôi tái lập cuộc sống,

thương tích trên cây Táo gai,

tất cả vẻ đẹp trần gian một hình phạt

là của tôi cũng như của các người –

Nguồn mang đến tôi đau khổ,

vì sao các người tìm thấy từ tôi

những bông hoa thiên đàng này,

ngoại trừ đánh dấu tôi

là một phần của chủ nhân:

Tôi là màu áo choàng ông mặc,

Da thịt tôi hiến dâng nghi lễ (*)

cho vinh quang của ông.

 

(*) Ngụ ý bông hoa trưng trên bàn tế lễ.

 

 

ĐẢO NHỎ. (*)

 

Trong mỗi đời sống, có một vài khoảnh khắc [để nhớ].

Trong mỗi đời sống, ở đâu đó có căn phòng,

cạnh bờ biển hoặc trên núi cao.

 

Trên bàn ăn, một đĩa trái mơ. Một gạt tàn thuốc màu trắng.

 

Giống như mọi hình ảnh, đều có hoàn cảnh đồng thuận:

trên mặt anh, nắng lung linh,

ngón tay tôi sờ lên môi anh.

Bức tường màu xanh trắng,

một ít sơn tróc dưới chân bàn làm việc.

 

Căn phòng đó chắc vẫn còn trên tầng lầu bốn,

có ban công nhỏ nhìn ra biển khơi.

Căn phòng vuông vức màu trắng,

tấm vải lót trên nệm kéo xuống tận mép giường.

Căn phòng không tan biến vào hư không,

vẫn còn trong thực tại.

Gió biển lùa qua cửa sổ, bay mùi thuốc iodine.

 

Sáng sớm: nghe người đàn ông gọi cậu bé đang tắm trở về.

Cậu bé đó, nay đã hai mươi tuổi.

 

Chung quanh khuôn mặt anh, những sợi tóc ướt rối thành vệt màu hung đỏ.

 

Vải mỏng, óng ánh bạc. Một chiếc bình lớn cắm đầy hoa Mẫu đơn trắng.

 

(*) Presque Isle là một vùng đất núi ở trong tình trạng sắp trở thành

 một đảo nhỏ. Nó có thể còn dính vào đất liền bởi một dãi đất hẹp.

 

 

ÁNH SÁNG RÚT LUI.

 

[Lời của ánh sáng.]

 

Các người mãi mãi là trẻ nít,

luôn luôn chờ đợi nghe một chuyện gì.

Tôi đã kể quá nhiều,

chán quá không kể nữa.

Vì vậy, đưa giấy bút cho các người,

bút làm bằng vỏ lau sậy

Tôi tập hợp bản thân

trong những chiều trên cánh đồng rậm rạp,

để nói với các người,

phải tự mình viết câu chuyện riêng.

 

Sau bao năm lắng nghe

Tôi tưởng các người đã biết

chuyện xảy ra thế nào.

 

Nhưng những gì các người có thể làm

chỉ là khóc.

Các người muốn hết mọi thứ khi nghe kể

nhưng không thứ nào suy xét ngọn ngành.

 

Từ đó, tôi nhận ra các người không thực sự suy nghĩ

bằng dũng cảm và đam mê;

chưa hề có đời sống riêng,

chỉ có bi kịch.

Do đó, tôi cho các người bi kịch trong đời sống,

bởi lẽ, chỉ giấy bút, không đủ để các người sáng tác, (*)

 

Các người sẽ không bao giờ hiểu sâu xa

lòng tôi thật sung sướng

khi thấy các người ngồi kia

như những sinh vật độc lập,

thấy các người mơ mộng nhìn ra cửa sổ,

tay cầm bút mà tôi đã trao

cho đến khi

buổi sáng mùa hè tan vào tác phẩm.

 

Sáng tạo đã mang các người,

như tôi đã biết trước,

niềm phấn khởi vô cùng thú vị,

ngay từ khởi đầu.

Bây giờ, tôi được tự do, muốn làm gì tùy ý,

tham gia vào các việc khác,

với lòng tin

các người không còn cần tôi nữa.

 

(*) Because apparently, tools alone weren’t enough: Bởi vì quá rõ

 ràng, chỉ dụng cụ không là không đủ.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Con biết cha dự định làm gì,

muốn dạy con yêu thương vũ trụ,

khiến con hoàn toàn không thể quay lưng,

quên bẵng tất cả một lần nữa –

 

Khắp nơi, khi con nhắm mắt,

tiếng chim hót,

hương hoa Tử đinh hương nở đầu xuân,

hương hoa Hồng nở mùa hè;

Ý cha muốn cắt đứt, từng bông hoa, từng liên hệ với trái đất –

tại sao cha làm con tổn thương,

tại sao cha muốn con bị ruồng bỏ trong giờ phút cuối,

trừ phi cha muốn con đói khát hy vọng

Con từ chối nhìn thấy cảnh cuối cùng

mất hết tất cả,

và thay vào đó muốn tin rằng

cuối cùng con vẫn còn có cha.

 

 

KINH CHIỀU: NGÀY TÁI LÂM. (*)

 

Yêu thương đời con,

cha đánh mất

và con cảm thấy

tràn đầy sức sống.

 

Vài năm trôi qua.

Không gian lấp đầy

âm nhạc nữ tính;

Trong sân trước

cây táo

trổ hoa lưa thưa.

 

Con cố gắng lấy lòng cha,

đó là điểm chính

của bài thơ này.

Nhưng cha đã biệt tích,

như tiểu thuyết Nga

đã viết đôi điều con quên bẵng.

 

Thế giới thật tốt đẹp,

còn quá nhiều thứ con chưa được hưởng –

 

Con nhìn bông hoa tàn tạ,

không còn màu hồng phấn,

mà già nua, héo úa, một màu trắng ngà –

Những cánh hoa

rung nhè nhẹ

rơi bềnh bồng trên thảm cỏ xanh non.

 

Cha chỉ là hư không,

thay đổi nhanh chóng

vào một hình tượng,

tiếng tăm của cha

vung vãi khắp nơi,

đó là nguồn khôn ngoan

và thống khổ.

 

(*) Parousia: Ngày Chúa Giê-Su xuất hiện bên cạnh Đức Chúa Trời để

 phán xét nhân loại. Đạo Thiên Chúa gọi là ngày tận thế.

 

 

KINH CHIỀU.

 

Tiếng nói của cha đã mất. Hầu như không còn nghe.

Lúc này, giọng nói sáng như sao trời đã khuất vào bóng tối

và mặt đất lại chìm vào âm u

bởi sự đổi thay mãnh liệt trong tim cha.

 

Từng ngày cỏ dần dần úa vàng

dưới bóng cây Phong tàng lá rộng.

Lúc này, khắp nơi con im lặng hỏi han

 

thấy rõ không thể nào tìm đến cha;

con không vì cha mà sống,

cha đã hoàn toàn khóa sổ tên con

 

Cha khinh thường chúng con quá đỗi

và tin rằng chỉ có mất mát

mới làm chúng con run sợ quyền năng,

 

Cơn mưa đầu mùa thu lay động đám hoa Huệ trắng –

 

Khi cha đi xa, hoàn toàn biệt tăm,

loại bỏ sự sống hữu hình ra khỏi vạn vật

 

nhưng không phải tất cả đời sống,

để chúng con không thể lìa bỏ cha. (*)

 

(*) Bốn câu kết rất tối nghĩa vì tác giả không tạo câu nối kết hoặc câu giải thích. Tôi hiểu rằng:

Khi cha đã hoàn toàn biệt tích,

xóa bỏ sự sống hữu hình ra khỏi vạn vật

nhưng không xóa bỏ tất cả đời sống

để lại một số hy vọng

cho chúng con không dám lãng quên cha.

 

 

KINH CHIỀU.

 

[Lời của bông hoa.]

 

Cuối tháng Tám.

Nóng nực như một cái lều

trùm lên khu vườn của John.

Luôn luôn có những thứ gì đó

không được khởi đầu,

những chùm cà chua,

sự phấn đấu của đám hoa Kèn nở muộn –

sự lạc quan của những thân cây lớn –

trong màu vàng óng ánh diễm lệ:

nhưng tại sao những thứ này

lại bắt đầu lúc gần chấm dứt?

Trái cà sẽ không bao giờ chín,

hoa Kèn sẽ chết khi đông sang,

rồi xuân đến sẽ không hồi phục.

Hoặc cha đang nghĩ

Con mất quá nhiều thời giờ

trông ngóng tương lai

như bà già mặc áo ấm giữa mùa hè;

Có phải cha nói rằng

con có thế nẩy nở,

không hy vọng sống lâu?

Cánh hồng lộng lẫy, (*)

Nở nhụy huy hoàng,

trắng,

lốm đốm đỏ thẳm.

 

(*) Má hồng lộng lẫy,

cổ họng mở huy hoàng, trắng,

lốm đốm với đỏ thẳm.

 

 

HOÀNG HÔN.

 

[Lời nói của hoàng hôn.]

 

Hạnh phúc lớn nhất của tôi

là âm thanh do các người lên tiếng

gọi tôi ngay cả khi tuyệt vọng;

Tôi buồn rầu vì không thể đáp lại

bằng lời lẽ các người có thể nghe.

 

Các người không có niềm tin vào ngôn ngữ.

Vì vậy đã ủy thác hiểu biết (*) vào các dấu hiệu

mà các người không thể đọc một cách rõ ràng.

 

Tiếng nói các người luôn luôn chạm đến tôi.

Và tôi vẫn liên tục trả lời,

Cơn giận của tôi tan dần

theo mùa đông chấm dứt,

Sự dịu dàng của tôi sẽ xuất hiện

theo làn gió mát đêm hè

bằng lời lẽ

mà các người có thể đáp trả.

 

(*) Authority: quyền lực, uy quyền.

 

 

LỜI RU.

 

Đã đến giờ nghỉ ngơi;

trong lúc này, các người đã chịu đủ áp lực căng thẳng.

 

Chạng vạng, rồi đêm xuống.

Đom đóm bay vào phòng, nhấp nháy, thỉnh thoảng, đó đây,

cửa sổ mở, tràn ngập hương vị mùa hè ngọt đậm đà.

 

Đừng nghĩ những điều này nữa.

Hãy lắng nghe các người thở từng hơi,

từng hơi như đom đóm,

từng hơi ngắn ngủi

góp lửa cho thế giới hiện hình.

 

Tôi đã ru các người dài đủ trong đêm hè.

rồi cuối cùng tôi sẽ chiến thắng [vì các người đã ngủ]

thế giới không thể nào cho các người

những giấc mộng dài.

 

Các người phải được dạy dỗ để yêu tôi.

Nhân loại phải được dạy dỗ để yêu

im lặng và bóng tối. (**)

 

(*) Trong lúc này, các người đã có đủ kích động

(**) giấc ngủ và chiêm bao.

 

 

HOA HUỆ XÁM.

 

[Lời nói của hoa Huệ.]

 

Đêm trở lại không khí mát mẻ,

như những đêm đầu xuân,

không gian trở lại yên tĩnh.

Liệu lời tôi nói làm phiền các người?

Bây giờ chỉ còn chúng ta,

không có lý do gì để im lặng.

 

Từ khu vườn

các người có thể thấy trăng tròn lên cao.

Tôi không thể nào thấy trăng rằm tháng tới.

 

Đến mùa xuân, khi trăng mọc,

nghĩa là thời gian luân chuyển không ngừng.

Giọt tuyết tụ rồi tan,

Từng đám hạt Phong rơi theo giọt sương xanh xám.

Ánh sánh lồng ánh sáng, (*)

trăng lên khỏi cây Bạch dương.

Nơi khúc quanh, cây rẽ ra, dưới ánh trăng,

lá nhóm Thủy tiên vàng mọc hàng đầu

màu xanh bạc nhợt nhạt.

 

Cùng nhau, chúng ta đi quá xa đến gần hết

rồi lo sợ sẽ kết thúc.

Những đêm như thế này,

tôi không chắc mình hiểu kết thúc nghĩa là gì.

Và các người, đã từng chung đụng với nhân loại –

sau tiếng khóc chào đời,

không vui sướng,

dường như sợ hãi,

phải chăng không hợp lý? (**)

 

(*) Trắng chồng lên trắng.

(**) sao không nói gì?

 

 

HOÀNG HÔN THÁNG CHÍN.

 

[Lời của Hoàng hôn.]


Tôi tập hợp các người chung đụng với nhau,

Tôi có thể bỏ rơi các người –

 

Vì các người tôi quá mệt mỏi,

cõi sống thật hỗn loạn –

Tôi chỉ có thể mở rộng tấm lòng

trong khoảng thời gian nào đó

cho sinh vật sống.

 

Tôi há miệng

kêu gọi các người sinh tồn,

tôi nâng ngón út,

chiếu xanh mờ hoa Cúc dại,

 

hoa Huệ, có vân vàng,

mọc mênh mông -

 

Các người đến rồi đi,

sau cùng, tôi quên hết tên tuổi.

 

Đến rồi đi,

bằng cách nào đó, mỗi người đều sai lầm,

bằng cách nào đó, thỏa thuận:

các người chỉ sống một đời,

không hơn không kém.

 

Tôi tập hợp các người chung đụng với nhau;

tôi có thể hủy bỏ các người

như thể vất đi một bản nháp,

một bài tập

 

bởi vì tôi đã hoàn thành cho các người,

một cách nhìn

thấy được sự đau buồn sâu kín.

 

 

HOA HUỆ VÀNG

 

[Lời của hoa Huệ vàng.]

 

Như tôi cảm thấy

bây giờ tôi đang chết

và biết

sẽ không còn nói nữa,

sẽ không còn hiện diện trên đất này,

một lần nữa bị triệu hồi ra đi,

chưa kịp thành một cây hoa,

chỉ là mầm nhỏ,

bị bụi đất bám vào xương sườn,

tôi kêu cứu

gọi các người, cha tôi và chủ nhân:

Chung quanh, các bạn đồng hành ngã gục,

họ nghĩ, các người không thấy.

Làm sao có thể biết các người đoái hoài,

nếu các người không cứu chúng tôi?

Trong hoàng hôn mùa hè,

có phải ngươi (*) đến gần đủ để nghe thấy

nỗi kinh hoàng của con mình?

Hoặc ngươi không phải là cha

kẻ đã nuôi nấng dạy dỗ tôi?

 

(*) Chỗ này dịch chữ “bạn” thì không đúng mạch văn. Dịch chữ “cha” thì quá đường đột. Người đọc có thể nghĩ chữ khác chính xác hơn. 

 

 

HOA HUỆ TRẮNG.

 

[Lời của hoa Huệ trắng.]

 

Như một cặp đàn ông đàn bà

dựng nên khu vườn nằm giữa họ

giống giường ngủ dưới trăng sao,

nơi đây lần lựa họ chờ buổi tối mùa hè

nhưng đêm đến trở lạnh kinh khủng:

có thể mọi thứ sẽ kết thúc,

có thể mọi hoa bị phá hủy.

có thể tất cả sẽ biến mất,

xuyên qua mùi thơm trong không gian

hàng cột trụ hẹp nhô cao vô dụng,

một biển hoa Anh túc nổi sóng xôn xao–

 

Hãy lặng thinh, các người yêu dấu.

Chuyện này không quan trọng đối với tôi

biết bao nhiêu mùa hè tôi đã phục sinh:

mùa hè này đi vào nơi vĩnh cửu.

Tôi cảm thấy hai bàn tay người

chôn tôi xuống đất

để giải thoát sự xán lạn.