Saturday, January 1, 2022

2248. MỘT BÔNG HỒNG CHO EMILY Truyện ngắn của nhà văn Mỹ WILLIAM FAULKNER (1897-1962) Dịch và giới thiệu: NGU YÊN



William Cuthbert Faulkner (1897 – 1962)

Sáng tác tiểu thuyết và truyện ngắn. Một trong số nhà văn Hoa Kỳ nổi tiếng toàn cầu và đi vào văn học sử thế giới. Nhà văn dẫn đầu văn chương miền nam Hoa Kỳ.

Sinh ra ở miền bắc bang Mississippi. Dời đến Oxford, khi còn trẻ thơ.

Tác phẩm nổi tiếng The Sound and The Fury ấn hành năm 1929. As I Lay Dying trong năm 1930.

Từ năm 1932 đến 1950 ông viết truyện phim cho Hollywood, khoảng 50 cuốn phim. 

Năm 1949, giải Nobel Văn Chương trao về tay ông.

Tác phẩm sau cùng, The Reivers, 1962, đoạt giải Pulitzer về tiểu thuyết. Qua đời vì bệnh tim.

Trả lời phỏng vấn trong tạp chí The Paris Review 1956, Faulkner nhận xét: Hãy để người viết tham gia giải phẫu hoặc lát gạch nếu họ quan tâm đến kỹ thuật. Không có phương pháp máy móc nào để hoàn thành việc sáng tác, không có lối đi tắt. Nhà văn trẻ sẽ là kẻ khờ khi chạy theo một lý thuyết. Tự học hỏi bằng chính những sai lầm của mình; mọi người đều chỉ học bằng lỗi của họ. Một nghệ sĩ giỏi nghĩ rằng, không ai có đủ khả năng để cho họ lời khuyên. Anh ta có lòng tự tin rất cao. Dù đã ngưỡng mộ cách mấy các nhà văn đi trước, anh ta vẫn muốn vượt qua họ.  


William Faulkner (1897-1962)


MỘT BPMH6 HỒNG CHO EMILY

 

[Tiểu thuyết của Faulkner nổi tiếng hơn truyện ngắn và cũng biểu lộ văn phong đặc thù của ông nhiều hơn. A Rose For Emily là một trong những truyện ngắn được hầu hết giới phê bình và độc giả yêu chuộng. Mang sắc giọng miền nam pha lẫn chất gô-tích (gothic). Sắc thái ảm đạm và bạo động.

Xuất hiện năm 1930 trên Saturday Everning Post. Mặc dù phản ứng đầu tiên có thể ghê tởm và kinh dị, nhưng với kỹ thuật văn chương, Faulkner đã tạo ra sự hấp dẫn, làm giảm bớt cảm giác kinh hoàng..]

 

1. Khi cô Emily Grierson chết, cả tỉnh chúng tôi đi dự đám tang; đàn ông thì vì lòng quí mến một thứ gì cổ kính đã sụp đổ; còn đàn bà thì hầu hết là vì tính hiếu kỳ muốn dòm ngó phía trong nhà cô, ít ra cũng đã mười năm không ai được đặt chân tới, trừ ông lão bộc vừa là người đầu bếp, vừa là người làm vườn.

Đây là một tòa nhà bằng gỗ to lớn vuông vắn, trước kia đã có lần sơn trắng. Tòa nhà đó với đường mái cong, với những chóp nhọn hoắt, với những bao lơn cuốn vòng theo đúng lối kiến trúc thanh kỳ của những năm 70, tọa lạc tại một khu phố sang trọng nhất trước kia. Nhưng rồi thì những nhà sửa xe, những nhà máy cán bông lấn dần và xóa mờ ngay cả những danh hiệu cổ kính của khu phố, chỉ còn trơ lại có nhà cô Emily vẫn ngạo nghễ vươn lên với dáng suy tàn mà đỏng đảnh giữa xe goòng chở bông và những trạm sơn băng, đúng là một cảnh chướng mắt giữa những cảnh chướng mắt khác. Và giờ đây, cô Emily đã nối gót theo những đại diện của hai danh hiệu cổ kính ấy vào nằm trong nghĩa trang dưới bóng tùng vi vu, giữa những dãy mồ vô danh của các chiến sĩ Hợp chủng miền Bắc và Liên Quân miền Nam đã gục ngã trên chiến trường Jefferson.

Lúc sinh thời, cô Emily là một truyền thống, một nghĩa vụ, một lo âu, một thứ đảm phụ thế truyền vào năm 1894 đè nặng lên cả tỉnh kể từ ngày viên đại tá thị trưởng Sartoris, người đã ban hành điều luật cấm các phụ nữ da đen ra phố nếu không quấn tạp dề, đã miễn hẳn mọi khoản thuế cho cô. Việc xá thuế này được tính từ ngày cha cô qua đời, và có hiệu lực vĩnh viễn. Không phải là cô Emily sẽ mang tiếng chịu nhận của cứu trợ. Đại tá Sartoris đã bịa ra một câu chuyện loanh quanh là trước đây thân phụ cô Emily đã cho tỉnh vay tiền, và như vậy theo lẽ sòng phẳng thường tình, tỉnh mới kiếm cách trả nợ như thế. Chỉ có người thuộc cùng thế hệ và với tầm kiến thức như đại tá Sartoris mới có thể bịa ra câu chuyện tương tự, mà cũng chỉ có phụ nữ mới tin được chuyện đó.

Khi thế hệ sau với tư tưởng mới mẻ hơn lên làm thị trưởng, làm hội viên hàng tỉnh thì việc thu xếp như vậy đã gây ra ít nhiều điều bất bình. Vào ngày đầu năm, họ gửi giấy báo thuế cho cô. Sang tháng hai rồi mà cũng chẳng nhận được hồi âm. Họ bèn gửi tới cô một công văn chính thức yêu cầu cô lúc nào thuận tiện hãy tới văn phòng, ông quận trưởng viết giấy đề nghị là sẽ đến nhà cô, hoặc là đánh xe tới đón cô. Ông nhận được thư trả lời viết trên một khổ giấy cổ lỗ, tuồng chữ trôi chảy, nhỏ xíu, nét mực mờ mờ, thư đáp rằng cô sẽ chẳng bao giờ ra khỏi nhà, giấy báo thuế gửi hoàn toàn không một lời giải thích.

Họ triệu tập một phiên hội đồng hàng tỉnh bất thường. Một toán đại diện được cử đến nhà cô, họ gõ cửa, cánh cửa đã tám hay mười năm qua không một người khách nào lọt qua, kể từ ngày cô thôi không dạy vẽ hình trên đồ sứ nữa. Người lão bộc da đen mở cửa, họ vào một hành lang tôi tối, nơi đây có một cầu thang hun hút đưa lên một chỗ còn tối tăm hơn nữa. Thoang thoảng có mùi bụi vào mùi mốc, một thứ mùi bưng bít ẩm ướt. Người lão bộc da đen dẫn họ vào phòng khách: đồ đạc chắc nịch, ghế có bọc da. Khi người da đen kéo cái màn ở một cửa sổ ra họ nhìn thấy mặt da ghế đã rạn nứt. Đến lúc họ ngồi xuống thì một đám bụi mỏng uể oải bốc lên quanh đùi họ, rồi từng đợt, từng đợt cuốn lên loang loáng trong tia nắng đơn côi. Trên một cái giá vẽ mạ vécni đã sậm màu đặt trước lò sưởi có bức chân dung cô Emily vẽ bằng chì than.

Họ đứng dậy khi cô Emily vào, người cô thấp và mập bận đồ đen, đeo một dây chuyền mảnh bằng vàng xệ tới bụng buông lẫn vào trong dây lưng. Cô chống một cây gỗ mun có tay cầm bịt vàng đã sậm màu. Cốt cách cô mảnh nhỏ, vì vậy vẻ mập mạp đó với người khác là khỏe mạnh, nhưng với cô chỉ là béo bệu mà thôi. Trông cô trương phù lên như một xác chết lâu ngày ngâm trong vũng nước tù, màu da lờn lợt. Cặp mắt cô chìm lẫn dưới những nếp nhăn bệu mỡ trông tựa hai mẩu than nhận chìm trên tấm bánh bột phồng, cặp mắt đưa đẩy lần lượt ngó vào mặt từng người trong khi họ bày tỏ lí do đến nhà cô.

Cô chẳng buồn mời họ ngồi. Cô cứ đứng sững nơi ngưỡng cửa, im lặng nghe cho đến khi một người trong bọn họ dứt lời. Lúc đó họ nghe tiếng tích tắc của cái đồng hồ khuất nẻo nơi đầu sợi dây chuyền vàng của cô.

Cô cất giọng khô khan lạnh lẽo:

- Tôi không có thuế má gì phải đóng ở Jefferson cả. Đại tá Sartoris đã giải thích với tôi như vậy. Có lẽ một người trong bọn các ông có thể tới văn khố tòa thị chính mà tự tìm hiểu.

- Nhưng chúng tôi đã làm việc đó rồi. Chúng tôi là nhân viên tòa thị chính mà, thưa cô. Cô không nhận được một tờ giấy báo thuế do ông quận trưởng ký gửi sao?

- Có, tôi có nhận được giấy, - cô ta đáp, - có lẽ ông ta tự phong là quận trưởng… Tôi chẳng có thuế má gì cần phải đóng ở Jefferson cả.

- Không thấy sổ sách nào ghi như vậy cả, cô hiểu cho chúng tôi phải…

- Các ông nên đi mà gặp đại tá Sartoris. Tôi chẳng có thuế má gì ở Jefferson.

- Nhưng cô Emily này…

- Hãy đi gặp đại tá Sartoris (Đại tá Sartoris đã qua đời gần mười năm rồi). Tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở Jefferson. Chú Tobe! (Người da đen xuất hiện). Dẫn đường cho các ông ấy ra.

[ ...]

4. Rồi ngày hôm sau chúng tôi đều bảo: “Cô ta sẽ tự sát” và chúng tôi cho rằng như thế có lẽ là hay nhất. Lần đầu tiên khi thấy cô đi với Homer Barron, chúng tôi đã bảo: “Cô sẽ lấy gã”, ít lâu sau chúng tôi bàn: “Tất nhiên cô sẽ thuyết phục được gã”, bởi lẽ Homer Barron – gã thích tụ bạ với cánh đàn ông và đã từng đi uống với những hội viên trẻ nhất của câu lạc bộ Elks – cũng tự nhận rằng mình không phải là hạng người sinh ra để lấy vợ. Sau nữa chúng tôi lại nói: “Tội nghiệp cho Emily”, phía sau mành cửa khi họ đi qua vào chiều chủ nhật trên chiếc xe ngựa mui trần bóng nhoáng, cô Emily ngẩng cao đầu, còn Homer Barron đội mũ lệch bên tai, răng cắn chặt điếu xì gà, dây cương và roi ngựa trong cái bao tay màu vàng.

Rồi thì có vài bà nghĩ đó là điều sỉ nhục cho cả tỉnh, làm gương xấu cho giới trẻ. Bọn đàn ông thì không muốn can dự đến; nhưng sau cùng các bà đã ép mục sư giáo phái Baptist – gia đình cô Emily theo giáo phái Episcopal - đến tiếp xúc với cô. Mục sư không tiết lộ những gì đã xảy ra trong cuộc tiếp xúc ấy, nhưng khước từ không trở lại nhà cô nữa. Ngày chủ nhật sau đó, họ lại đánh xe đi với nhau ở ngoài phố, và hôm sau thì bà vợ ông mục sư biên thư cho thân quyến cô Emily ở Alabama.

Thế là trong nhà cô lại có thân quyến tới ở, và chúng tôi ngồi chờ xem diễn biến. Thoạt nhìn thì chẳng thấy gì hết. Sau rồi chúng tôi yên chí là họ sắp sửa lấy nhau. Kế đó chúng tôi được tin là cô Emily đã tới hiệu kim hoàn đạt một bộ đồ trang sức cho nam giới bằng bạc có khắc hai chữ đầu H.B ở mỗi món đồ. Hai hôm sau, chúng tôi lại được tin cô sắm một lô quần áo đàn ông, có cả áo ngủ, và chúng tôi kết luận: “Họ lấy nhau thật rồi”. Chúng tôi rất mừng. Mừng vì hai cô chị họ còn điệu bộ Grierson hơn cả cô Emily nữa.

Thế nhưng chúng tôi không ngạc nhiên khi thấy Homer Barron - lề đường phố khi đó lát đã xong được ít lâu rồi - bỏ đi. Chúng tôi hơi thất vọng là chẳng có cuộc chung vui nào, nhưng chúng tôi tin rằng gã ra đi để sửa soạn đón cô Emily, hay để cô có cơ hội thuận tiện tống khứ được hai người chị họ đi. (Vào thời gian ấy quả là chúng tôi đã hùa nhau đứng về phe cô Emily, giúp cô mưu kế để đẩy cho bằng được hai cô chị họ kia). Có điều khá chắc chắn là trong vòng một tuần lễ cả hai người chị họ đều ra đi. Và đúng như chúng tôi mong chờ, chưa đầy ba ngày, Homer Barron trở lại thành phố. Người láng giềng của cô trong thấy anh hầu da đen để gã vào lối cửa bếp một buổi lúc trời chạng vạng.

Và đó là lần chót chúng tôi thấy Homer Barron. Rồi cả cô Emily cũng chẳng thấy mặt trong suốt một thời gian. Vẫn chỉ thấy anh da đen đi đi về về với cái làn đi chợ, còn cửa chính thì đóng im ỉm. Thỉnh thoảng chúng tôi trông thấy cô ở cửa sổ một lúc như tối hôm nào mấy người tới rắc vôi bột xung quanh nhà cô, nhưng đến gần sáu tháng trời không thấy cô xuất hiện ở ngoài phố. Lúc đó chúng tôi mới ngã ngửa ra là cũng phải dự liệu cả đến điều này nữa: dường như tính nết đó của thân phụ cô, đã quá nhiều mâu thuẫn với nếp sống phụ nữ của cô, nó độc địa quá, dữ dằn quá đến không thể tiêu tan đi được.

Khi chúng tôi lại gặp được cô Emily sau này, thì thấy người cô béo phệ ra, tóc cô xám thêm đến độ ngả sang màu muối tiêu, màu xám sắt thì giữ màu không đổi nữa. Cho đến ngày cô chết, vào tuổi bảy mươi tư, tóc cô vẫn giữ nguyên màu xám sắt mạnh mẽ như tóc người đàn ông năng hoạt động vậy.

Từ độ đó trở đi cửa tiền nhà cô vẫn đóng chặt, trừ một thời gian khoảng sáu, bảy năm, thuở cô trạc bốn mươi, cô dạy vẽ hình trên đồ sứ. Cô thu dọn một phòng ở tầng một làm xưởng vẽ, nơi đây những con gái, cháu gái của những người đồng thời với đại tá Sartoris được gửi tới học đều đặn, cần mẫn như đi nhà thờ vào ngày chủ nhật, mang sẵn theo đồng hai mươi lăm xu để góp vào trong đĩa. ấy thế mà thuế má của cô được xá hết.

Rồi khi thế hệ trẻ trở thành trụ cột và linh hồn của thành phố, và những học trò lớp vẽ của cô lớn lên, tán lạc đi các nơi, họ cũng chẳng gửi con cái họ đến học cô, mang theo những hộp màu, những cọ sơn buồn nản và những hình cắt trong các tập san phụ nữa, cửa tiền nhà cô đóng chặt sau lưng đứa học trò cuối cùng, rồi đóng kín như thế mãi. Khi thành phố được phát thư tín miễn phí, riêng một mình cô Emily từ chối không cho họ treo bảng số trên cửa nhà, mà cũng không cho gắn hộp thư vào cửa, cô nhất thiết không chịu nghe một lời phân giải nào.

Ngày, tháng, năm trôi qua, chúng tôi thấy anh người làm da đen tóc thêm sậm màu, lưng thêm còng, vẫn đi đi về về với cái làn đi chợ. Cứ mỗi tháng chạp tới, chúng tôi lại gửi đến cho cô một tờ giấy báo thuế và sau đó một tuần nhận được giấy gửi hoàn qua bưu điện, với mấy chữ: không người nhận. Thỉnh thoảng chúng tôi có trông thấy cô xuất hiện sau một khung cửa sổ tầng dưới - hẳn là cô đã khóa kín tầng trên – như một pho tượng bản thân khắc sau trong khám. Cứ như vậy cô sống trải từ thế hệ này sang thế hệ khác, cao giá, không lẩn trốn, bất khả xâm phạm, trầm tĩnh, ngang bướng.

Và rồi cô chết. Cô lâm trọng bệnh trong căn nhà đầy bụi bám và bóng tối với người lão bộc da đen lụm cụm hầu hạ. Chúng tôi cũng không hay là cô đau, đã từ lâu chúng tôi từ bỏ việc dò hỏi người lão bộc về cô. Lão chẳng nói với ai lời nào, chắc cả với cô cũng vậy, tiếng lão đã khàn khàn, rỉ sét bởi đã từ lâu không dùng.

Cô chết ở một trong mấy căn phòng dưới nhà, trên cái giường nặng chịch bằng gỗ hồ đào, có tấm màn che, mái đầu tóc xám đặt trên chiếc gối màu vàng mốc meo vì lâu ngày và thiếu ánh nắng mặt trời.

5. Lão da đen ra cửa tiền đón người đi đầu trong bọn các bà rồi dẫn tất cả vào trong nhà, giọng nói của các bà tắc nghẽn, thì thầm với những cái nhìn vội vàng lén lút, đoạn lão lẩn đi. Lão đi thẳng qua căn nhà, ra lối cửa hậu và rồi không thấy đâu nữa.

Hai người chị họ cũng tất tưởi đến viếng. Họ cho làm đám tang ngay hôm sau, và cả tỉnh đến viếng cô Emily nằm dưới đống hoa mới mua, chân dung thân phụ cô vẽ bằng than chì như trầm tư trên cỗ áo quan, các bà thì thầm ma quái, trên sân cỏ, trong hành lang, những cụ già - một vài cụ vận binh phục Liên Quân miền Nam chải chuốt diêm dúa tán gẫu về cô Emily, coi cô như người cùng thế hệ với mình, tin rằng mình đã có lần khiêu vũ với cô, và có lẽ đã tán tỉnh cô nữa, các cụ đã lẫn thời gian với cấp số toán học của nó, như những người già thường lẫn, đối với họ dĩ vãng không phải là con đường suy giảm dần, mà là một cánh đồng cỏ bao la mùa đông chẳng bao giờ chậm tới, ngăn cách họ bằng cái cổ chai nhỏ hẹp của mười năm qua.

Chúng tôi vốn biết trên lầu có một căn phòng đóng kín mà đã bốn mươi năm qua không một ai biết tới, phải phá cửa mới vào được. Người ta đợi cô Emily đã mồ yên mả đẹp mới dám phá cửa đó ra.

Sức phá cửa mạnh dường như đã làm căn phòng tràn ngập bụi bậm. Tưởng như có tấm khăn phủ quan tài mỏng mùi hăng trùm khắp căn phòng được trang trí cho cô dâu chú rể: trên những tấm màn buông có riềm màu hồng bạc phếch, trên những chụp đèn màu hồng, trên cái bàn phấn, trên loạt đồ pha lê thanh nhã, trên bộ đồ trang sức của nam giới mà mặt trong bằng bạc đã xám xịt, xám đến nỗi mấy chữ viết đã ám đen. Giữa những thứ đó có một chiếc cổ cồn và một chiếc cà vạt tưởng như vừa được tháo ra, và khi nhấc lên còn để lại trên mặt bàn một hình trăng lưỡi liềm mờ nhạt trên nền bụi. Trên ghế còn vắt bộ quần áo gấp nếp cẩn thận, dưới ghế là đôi giày câm nín và đôi tất chơ vơ.

Chính gã đàn ông đó nằm trên giường.

Chúng tôi đứng yên đó một lúc lâu, cúi nhìn cái miệng cười rộng hoác sâu thẳm và không còn da thịt. Người ta thấy như thân hình gã có một lúc nằm với dáng điệu ôm ấp, nhưng rồi giấc ngủ dài, dài vượt tình yêu, giấc ngủ dài đã chinh phục được sự đỏng đảnh của tình yêu, đã lừa gạt được y. Di thể gã đã rữa nát dưới những gì còn sót lại của chiếc áo ngủ, chẳng thể gỡ khỏi nơi mặt giường gã nằm, và trên xác gã cũng như chiếc gối bên cạnh gã phủ một lớp bụi đều đặn, dẻo dai và bền bỉ.

Lúc ấy chúng tôi để ý nhận thấy trên mặt gối thứ hai còn in hằn vết lõm đầu người. Một người trong bọn chúng tôi cúi xuống, lớp bụi gờn gợn vô hình khô khan mùi hăng xông thẳng lên mũi, chúng tôi nhìn ra thì đó là một sợi tóc dài, một sợi tóc màu xám sắt.