Wednesday, February 23, 2022

2325. TRƯƠNG VŨ Kẻ sĩ trong xã hội Việt Nam


 

Khi nhận lời viết bài cho tạp chí “Kẻ Sĩ”, tôi có vài lúng túng. Tôi, người viết, phải là một kẻ sĩ? Hay, giới độc giả đa số là những kẻ sĩ, nói khác đi, thuộc tầng lớp sĩ phu? Giống như, với một tạp chí khoa học, người viết hay người đọc phần đông thuộc giới khoa học, hay ít ra, cũng ham thích các bộ môn khoa học. Mặt khác, về danh từ “kẻ sĩ”, tôi được đọc hay nghe nhiều khi còn ở trường học, hay khi đọc các sách văn, thơ, sử ký cũ. Trong đời sống hằng ngày, hiện nay, danh từ này rất ít được dùng đến. Và, nếu được dùng đến, để chỉ những ai, những người như thế nào trong xã hội chúng ta, trong nước hay trong các cộng đồng ở hải ngoại? Và, tại sao, từ xưa đến nay, không có một vị nữ lưu nào được gọi là kẻ sĩ? Chữ “kẻ sĩ” chỉ được dùng cho đàn ông? Bài viết này khởi đi từ những lúng túng như vậy.

 

Hãy thử có một cái nhìn tổng quát về vai trò của tầng lớp sĩ phu Việt Nam qua những giai đoạn quan trọng của lịch sử từ cuối thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh đến thời hiện đại. Trong thời thịnh của Hán Nho, tầng lớp sĩ phu hay kẻ sĩ là một tầng lớp được kính trọng trong xã hội. Kẻ sĩ là một mẫu người lý tưởng. Trong một bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ, ông khẳng định vị trí hàng đầu của Kẻ Sĩ trong câu “Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên”, theo quan niệm xếp hạng “sĩ nông công thương” ngày xưa.  Nói chung, qua cách hiểu thông thường, đây là thành phần có học, mê đọc sách, và hiểu đạo thánh hiền. Theo như một câu nói khá thịnh hành ở Việt Nam của Hoàng Đình Kiên, một họa/thi gia nổi tiếng thời Bắc Tống, “Sĩ phu ba ngày không xem sách soi gương mặt mũi đáng ghét, ăn nói nhạt nhẽo khó ưa” (Sĩ đại phu tam nhật bất độc thư, đối kính giác diện mục khả tăng, hướng nhân diệc ngữ ngôn vô vị).

 

Trong xã hội cũ, tầng lớp sĩ phu hầu như đồng nghĩa với tầng lớp nho sĩ. Đọc sách vở về những thế kỷ sau cùng, có cảm giác như mục đích chính của đa số trong tầng lớp này là đậu đạt và làm quan. Dù luôn là một tầng lớp được kính trọng và ưu đãi, tầng lớp sĩ phu thường tỏ ra bất lực trước những đổi thay của thời cuộc hay những biến động lớn trong xã hội. Còn giới quan lại thì ngày càng trở nên tham ô và bất tài. Đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí, chúng ta hình dung được khá rõ cách ứng xử nặng về chữ nghĩa, giỏi tránh né của giới sĩ phu Bắc Hà, trong những tranh giành quyền lực đẫm máu trong phủ chúa, trong các biến động gây ra bởi loạn kiêu binh, hay cách họ chạy theo hay chống đối vua Lê, chúa Trịnh, hay sự tiến quân của Nguyễn Huệ ra Bắc. Khi người Pháp đánh chiếm Việt Nam, có một số sĩ phu yêu nước đứng ra lãnh đạo và phát động cuộc chiến bảo vệ tổ quốc, như Phan Đình Phùng, Đề Thám, v.v… Tuy nhiên, dù được đông đảo thành phần nông dân ủng hộ, họ thất bại, vì đa số sĩ phu thụ động. Trong xã hội Việt Nam thời Hán Nho, tiếng nói và hành động của sĩ phu thường có ảnh hưởng rất lớn. Nhưng, với đa số thụ động này, hành động được ngưỡng mộ chỉ là sự thanh liêm khi làm quan, từ quan khi bất mãn với thời cuộc, với thế sự, rồi về ở ẩn hay vui thú điền viên. Trong lúc đất nước lâm nguy, nhiều người đang hoặc từng giữ những chức vụ quan trọng vẫn tiếp tục làm thơ ca ngợi chữ “nhàn” hay ca ngợi đời sống rời xa thế tục. Chúng ta hiểu được sự thất bại của một nền giáo dục nặng từ chương đã lỗi thời, hiểu được hoàn cảnh của đất nước vào lúc đó, hiểu được sự thối nát của chế độ phong kiến đương thời nhưng rất khó hiểu về tinh thần sĩ phu của một dân tộc có một lịch sử lâu dài về văn hiến. Vì, lòng yêu nước và khả năng ứng xử của một kẻ sĩ không phụ thuộc vào lòng yêu nước, khả năng ứng xử của một ông vua hay những ông đại thần hèn nhát. Chỉ cần 11 tên lính Pháp với những khẩu súng trường rất thô sơ vẫn hạ được thành Ninh Bình.

 

Sau khi người Pháp chiếm Đông Dương, lớp nho sĩ tan rã dần. Xã hội Việt Nam bắt đầu xuất hiện một thành phần mới thay thế lớp nho sĩ cũ. Thành phần mới này tiếp thu một nền giáo dục từ các trường học tổ chức theo chương trình Pháp. Danh từ trí thức bắt đầu xuất hiện. Sự đóng góp của họ cho xã hội khá phức tạp, có tiêu cực có tích cực, nhưng khó để đánh giá một cách đơn giản. Tuy nhiên, nói chung, về mặt tích cực, cách biểu lộ tình yêu nước và những đóng góp cho xã hội, cho quê hương vượt trội hơn lớp nho sĩ cũ. Họ có kiến thức rộng hơn, năng động hơn, thực tiễn hơn, nhìn xa hơn, và nhiệt huyết hơn. Trong thời nho mạt này, ngoài thành phần trí thức mới, một số nho sĩ cũ biết nhìn về một thế giới rộng lớn hơn, thấy được cái hay của người, kể cả của kẻ thù, và cái dở của mình. Không được đào tạo như lớp trí thức mới nhưng bằng khả năng và tầm nhìn lớn, họ tiếp thu cái hay của tinh thần trí thức Tây phương. Họ lập nên Đông Kinh Nghĩa Thục, phát động phong trào khai dân trí, phong trào Đông Du, v.v...  Những phong trào này nhận được sự hỗ trợ nồng nhiệt từ thế hệ trẻ hơn. Trong giai đoạn lịch sử này, người dân Việt cũng đồng thời chứng kiến nhiều vận động từ giới trí thức về cải cách xã hội, chính trị, văn hóa, qua báo chí và sách vở. Lòng yêu nước và khát vọng độc lập, khát vọng tiên tiến khơi dậy mạnh mẽ. Nhiều phong trào yêu nước liên tiếp được phát động, từ cuộc khởi nghĩa Yên Bái cho đến cuộc chiến tranh giành đôc lập về sau. Có thành công, có thất bại, nhưng chính nhờ vào sự dấn thân tích cực của đa số trí thức, thời cuộc thay đổi.

 

Trong cuộc chiến tranh Việt Pháp 1945-1954, tầng lớp này tham dự vào hai phe khác nhau. Lúc đó, sự chống đối giữa những trí thức không thuộc đảng phái nào chưa quyết liệt lắm. Tùy hoàn cảnh chính trị và địa dư, họ có thể cầm súng bắn nhau ngoài mặt trận, nhưng trên những diễn đàn trí thức, qua những ứng xử giữa con người với con người, họ không quá tàn ác với nhau. Khi đất nước chia đôi vào 1954, họ chấp nhận chia tay trong ôn hòa để đi về hai bên giới tuyến đối nghịch. Tuy nhiên, sau đó, mọi cách ứng xử hoàn toàn thay đổi.

 

Ở miền Bắc, sau 1954, sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất và những thanh trừng chính trị đẫm máu theo mẫu Stalin và Mao, tầng lớp trí thức hầu như không còn nữa. Thành phần nồng cốt của xã hội miền Bắc là thành phần cán bộ. Một trí thức cũ có thể trở thành cán bộ, nhưng đã là cán bộ, nhất là cán bộ trong một chế độ như chế độ Cộng Sản thì không còn là trí thức vì không thể duy trì được tư duy và nhân cách độc lập. Nhiều trí thức nổi danh trong thời Pháp thuộc không tiếp tục ứng xử độc lập như trước, để có những đóng góp cho xã hội, cho nhân loại như trước. Bài học họ để lại cho đời chỉ còn là những kinh nghiệm về chịu đựng và khả năng tồn tại. Nhiều khuôn mặt lớn trong Nhân Văn Giai Phẩm, chẳng hạn, cũng thế.

 

Ở miền Nam, sau 1954, ảnh hưởng của tầng lớp trí thức trong lãnh vực chính trị không nhiều. Không so được với thành phần chỉ huy quân đội và cán bộ một số đảng phái. Tuy nhiên, trong xã hội, họ vẫn còn là một tầng lớp tương đối được kính trọng, giúp giảm thiếu phần nào sức mạnh của các khuynh hướng độc tài và lệ thuộc. Ho giữ được khá tốt sự độc lập của trường học, đặc biệt, tính tự trị của đại học. Họ không để chính trị ảnh hưởng đến chương trình giảng dạy, và có nhiều đóng góp vào sự phát triển cho xã hội trong giáo dục và văn hóa. Trong điều kiện của cuộc chiến, ảnh hưởng này vẫn không đủ sức lấn áp để ngăn chận sự sụp đổ của miền Nam.

 

Kể từ 1975, xã hội Việt Nam hoàn toàn thay đổi, sau khi thống nhất, sau cách kết thúc đẫm máu, và sau những trả thù tàn bạo, những vượt biển thảm khốc. Một bộ phận người Việt khá đông rời quê hương, di tản đến nhiều quốc gia khác nhau. Ngày nay, ở hải ngoại, lớp trí thức cũ không còn bao nhiêu, lớp mới dần hội nhập vào giới trí thức Tây phương. Trong nước, số trường trung, tiểu học, và đại học nhiều hơn. Rất nhiều, so với trước 1975. Đào tạo về chuyên môn khá tốt. Tuy nhiên, đại học chưa được tự trị và có xu hướng đào tạo chuyên gia hay cán bộ hơn đào tạo trí thức. Mỗi năm, thành phần ưu tú tốt nghiệp trung học, có điểm số cao nhất, được tuyển chọn vào khối trường công an như học viện Chính trị Công an nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, v.v... Điểm số dành cho các trường đại học Bách khoa, Kinh tế, Khoa học,… thấp hơn, thấp hơn cả ngành Hàn Quốc học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Sinh viên theo ngành Hàn Quốc học này sau khi tốt nghiệp có thu nhập và có tương lai tốt hơn nhiều so với những sinh viên theo các ngành Việt học. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, thành phần có ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của xã hội vẫn là thành phần cán bộ. Tiếp đến là giới đại gia. Về giới trí thức hiện nay, GS Hoàng Tụy đã nêu một nhận xét rất đáng lưu-ý:

 

“…Mỗi người chỉ biết việc của mình, chỉ lo cho mình, ít khả năng và cũng không thích thú hợp tác với bạn bè đồng nghiệp. Dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức VN. Chưa bao giờ trong xã hội ta có nhiều Xuân Tóc Đỏ như bây giờ. Tôi nói có vẻ bi quan, nhưng thà nhìn khắt khe một chút để biết người biết ta, còn hơn nhắm mắt chủ quan một cách lố bịch…” [1]

 

Nhìn lướt qua dòng lịch sử từ cận đại đến hiện đại như trên, ta thấy, nếu có một tầng lớp sĩ phu trong xã hội Việt Nam, thì đó phải là tầng lớp nho sĩ trong xã hội cũ và tầng lớp trí thức trong xã hội mới. Đến đây, chúng ta bắt đầu có chút mâu thuẫn. Mâu thuẫn ở chỗ tinh thần trí thức, chịu ảnh hưởng của giáo dục Tây phương, với tinh thần nho sĩ, chịu ảnh hưởng giáo dục Khổng Mạnh của Trung Hoa. Một bên chú trọng vào tư duy độc lập, khuyến khích tìm tòi, khuyến khích cống hiến những khám phá mới, khuyến khích phản biện. Một bên, cố học để thấu hiểu nhưng không phản biện sách vở, lời dạy của thánh hiền, để lập công-danh, để giúp đời, để sống đẹp, và dùng sách vở không khác gì của nho sĩ thuộc một, hai ngàn năm trước. Dù chịu ảnh hưởng văn hóa và chế độ giáo dục của Trung Hoa, đa số nho sĩ của ta từ thế hệ này qua thế hệ khác rất nặng về từ chương, không thật sự có đam mê khám phá và hiểu biết thâm sâu. Ngoài thơ, phú, không có công trình đáng kể nào về triết học, văn học, nghệ thuật như Trung Hoa. Nếu chấp nhận lớp trí thức mới này là sĩ phu thì khó chấp nhận lớp nho sĩ cũ là sĩ phu, dù rằng danh từ sĩ phu khởi đi từ thời thịnh của Hán Nho.

 

Một vấn đề khác chúng ta gặp phải khi theo dõi vai trò của tầng lớp trí thức, tức lớp sĩ phu mới, trong xã hội Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến nay. Thời Pháp thuộc, người Pháp áp đặt nền cai trị nhằm mục đích khai thác cho quyền lợi và quyền lực của họ, đồng thời xây dựng một chế độ giáo dục dựa trên khuôn mẫu của họ. Nhưng chính trong thời kỳ đó, tầng lớp trí thức được hình thành và có nhiều ảnh hưởng tích cực vào nhiều lãnh vực, làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn về văn hóa, dân trí, học thuật, v.v... Họ tạo nên thời cuộc. Nhưng tại sao, khi đất nước chịu sự cai trị của người Pháp, họ tạo nên thời cuộc, và khi không còn sự cai trị đó nữa, thời cuộc chế ngự họ? Lý do, theo tôi, dù dựng nên cho Việt Nam vì nhu cầu cai trị, nền giáo dục của Pháp vẫn là một nền giáo dục tiến bộ, nhân bản và nhằm đào tạo trí thức. Giáo dục của Việt Nam, ở miền Bắc trước 1975 và trên toàn quốc sau 1975 không nhằm mục đích đó. Một lý do khác, như được trình bày tiếp theo đây, liên quan đến định nghĩa chữ Kẻ Sĩ và tinh thần kẻ sĩ.

 

Nhiều dân tộc có mẫu người lý tưởng của họ, mang bản sắc của họ, và mỗi khi nói đến dân tộc đó người ta nghĩ ngay đến mẫu người này. Chẳng hạn, “gentleman” của người Anh hay “samourai” của người Nhật. Có phải “kẻ sĩ” là mẫu người lý tưởng, mang bản sắc của dân tộc Việt Nam và mỗi khi nói đến người Việt Nam thì nghĩ ngay đến tinh thần kẻ sĩ?

 

Trong văn thơ cũ, khi đọc đến chữ “kẻ sĩ” chúng ta dễ liên tưởng đến giới nho sĩ. Chẳng hạn, khi đọc bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ như đã nêu trên. Và, liên tưởng đến giới trí thức ngày nay. Nhưng một nho sĩ không hẳn là kẻ sĩ và một trí thức cũng không hẳn là kẻ sĩ. Bên cạnh, nếu chúng ta chấp nhận một định nghĩa cho chữ Kẻ Sĩ dựa trên từ nửa Hán nửa Nôm này, thì một sĩ phu cũng không hẳn là một kẻ sĩ.

 

Riêng chữ “trí thức”, chúng ta thường sử dụng nó trong nghĩa rất tương đối. Đa số thuộc tầng lớp mà chúng ta gọi là trí thức trong thời Pháp thuộc chưa tốt nghiệp đại học, nghĩa là còn ở tầm học trò khá thấp trong ngành chuyên môn của họ. Thời đó, ai tốt nghiệp đại học đương nhiên được xem là trí thức. Ngày nay, số tốt nghiệp đại học đông hơn nhiều, tiêu chuẩn cao hơn. Tuy nhiên, cách gọi ai là trí thức vẫn mang giá trị tương đối so với giá trị thực đòi hỏi ở các xã hội có truyền thống giáo dục Tây phương cao, như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật, v.v... Tạm thời, xin chấp nhận cách nhìn tương đối về trí thức trong bài viết này.

 

Trở lại chuyện sĩ phu, trí thức và kẻ sĩ. Theo tôi, chữ “sĩ” trong “kẻ sĩ” không chỉ có nghĩa là học trò, là người có học mà còn có nghĩa như trong chữ “sĩ khí”. Như vậy, trong xã hội ngày nay, một kẻ sĩ là một trí thức có sĩ khí, có trách nhiệm làm tốt xã hội, quyết liệt bảo vệ sự thật và không chịu khuất phục dưới bất cứ đe dọa, áp lực nào mà mình tin là phản trí thức. “Kẻ Sĩ” cũng không bị giới hạn vào giới tính, như “Sĩ Phu”. Từ quan điểm đó, nhìn lại những giai đoạn lịch sử kể trên, cái mà xã hội chúng ta thiếu không phải là sĩ phu hay trí thức mà chính là kẻ sĩ. Thời thuộc Pháp, Trần Đức Thảo là một trí thức lớn, sau khi về nước, ông chịu bao áp lực, ông không tiếp tục nói, viết ra những suy nghĩ thật nữa, không dám đóng góp cho xã hội, cho nhân loại bằng khả năng trí thức của ông. Ông chịu khuất phục. Hiểu biết cái chính trị của xã hội Việt Nam vào lúc đó, chúng ta thông cảm cho ông, thương tâm ông. Ông vẫn là một trí thức nhưng rõ ràng, không là một kẻ sĩ. Ông không là Tư Mã Thiên. Ông không là Emile Zola. Ông không là Shakarov. Ông là Phùng Quán. Xã hội chỉ thay đổi được cho tốt hơn nếu xã hội đó có nhiều kẻ sĩ.

 

Kẻ Sĩ là một mẫu người lý tưởng. Một vấn đề cần được bàn ở đây là có phải nó biểu trưng cho bản sắc của dân tộc Việt như Gentleman của Anh hay Samourai của Nhật? Câu hỏi rất khó trả lời. Trong đời sống hằng ngày, không phải chỉ người Anh, mà chính chúng ta, người Việt, vẫn thường dùng chữ gentleman để nhận xét về phong cách của một người Anh nào đó. Cách dùng chữ samourai cũng vậy. Chỉ mới đây thôi, nhiều người Việt đã dùng chữ tinh thần samourai để nói về phong cách của một cô công chúa Nhật khi quyết định rời bỏ hoàng cung. Nhưng, trong đời sống hằng ngày, mấy khi chúng ta dùng chữ kẻ sĩ để nói về một người Việt nào đó? Và, ngày nay, trong đời sống hằng ngày, trong các trao đổi giữa giới trẻ với nhau, chúng ta có thường nghe hay thấy chữ kẻ sĩ được dùng trong câu chuyện? Với một hiểu biết, có thể nông cạn, về một thực tế như vậy, tôi chưa dám trả lời câu hỏi trên.

 

Tuy nhiên, Kẻ Sĩ vẫn là một mẫu người lý tưởng. Cho xã hội Việt Nam. Tôi thích câu trả lời của Reginald Johnston, ông thầy người Anh của hoàng đế Phổ Nghi, trong phim The Last Emperor. Trong buổi học đầu tiên, Phổ-Nghi hỏi Johnston: “Ông có phải là một gentleman?” Johnston trả lời: “Thưa ngài, tôi cố gắng làm một gentleman.” Tôi không được đọc cuốn sách của Johnston, nói về thời gian ông làm gia sư cho Phổ Nghi, nhưng sau khi đọc hồi ký của Phổ Nghi, tôi tin Johnston quả thật là một gentleman.[2] Câu chuyện đó có thật sự xảy ra hay chỉ có trong phim, tôi vẫn thích câu trả lời đó. Cho dù, ông có thật sự là một gentleman hay chưa phải.

 

Kẻ Sĩ là một mẫu người lý tưởng. Tôi xin mượn câu trả lời của Reginal Johnston trong phim để kết thúc bài viết này: “Cố gắng làm một kẻ sĩ”. Nhất là, trong học thuật, trong văn học, và trong nghệ thuật.

 

TRƯƠNG VŨ

Virginia, tháng 2 năm 2022.

 

(1] Hoàng Tụy, “Để có lớp trí thức xứng đáng”, Tạp chí Tia Sáng, (2008).

[2] Pu Yi, Paul Kramer biên-tập, The Last Manchu: The Autobiography of Henry Pu Yi, the Last Manchu Emperor of China [Người Mãn-châu cuối cùng: Tự-truyện của Henry Phổ-Nghi, Hoàng-đế Mãn-châu cuối cùng của Trung-quốc], Kuo Ying Paul Tsai dịch (London: Weidenfeld and Nicolson, 1987).