Friday, September 23, 2022

2603. LỤC ĐỊA THỨ BA VÀ CUỐI CÙNG Truyện ngắn của nhà văn Mỹ JHUMPA LAHIRI (1967-…) Dịch và giới thiệu NGU YÊN

Nhà văn Jhumpa Lahiri (1967-...)

Nilanjana Sudeshna “Jhumpa” Lahiri sinh 11 tháng 7 năm 1967. Tác giả Mỹ sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận, gần đây sáng tác bằng Ý ngữ.

Tuyển tập truyện ngắn Interpreter of Maladies (1999) đoạt giải Pulitzer về truyện. Tiểu thuyết đầu tay The Namesake (2003) đoạt giải PEN/Hemingway Award. Tuyển tập truyện ngắn thứ hai Unaccustomed Earth (2008) đoạt giải Frank O’Conor International Short Story Awrad. Tiểu thuyết thứ hai The Lowland (2013)  vào chung kết của Man Booker Prize và National Book Award về truyện. Năm 2018 tiểu thuyết Ý ngữ đầu tiên Dove mi trovo của Lahiri được phát hành. Cô còn dịch toàn bộ Penguin Book of Italian Short Stories, bao gồm 40 truyện.

Năm 2014, Lahiri lãnh National Humanities Medal. Từ năm 2015, dạy học về sáng tác ở đại học Princeton. 



LỤC ĐỊA THỨ BA VÀ CUỐI CÙNG


Tôi rời Ấn Độ năm 1964 với chứng chỉ thương mại và số tiền tương đương trong lúc đó là mười đô la. Suốt ba tuần, tôi đi trên chuyến tàu S.S.Roma, tàu chở hàng của Ý, ở một phòng nhỏ bên cạnh phòng máy. Tàu băng qua biển Ả Rập, Biển Đỏ, Địa Trung Hải, sau cùng đến Anh quốc. Tôi sinh sống ở London, trong công viên Finsbury, chung một nhà với toàn là cử nhân Bengali không một xu dính túi như tôi, ít nhất là một tá, đôi khi nhiều người hơn, tất cả đều phải vật lộn để lập thân ở ngoại quốc.

Tôi tham dự các bài giảng ở L.S.E. và làm việc tạm thời tại thư viện cho qua ngày. Mỗi phòng ngủ chứa vào khoảng ba hoặc bốn người, dùng chung một phòng vệ sinh lạnh ngắt, thay nhau nấu những nồi cà-ri trứng, ăn bốc trên bàn trải giấy báo. Hàng ngày, ngoài công việc thường xuyên, chúng tôi có rất ít trách nhiệm. Đến cuối tuần, chúng tôi mặc đồ ngủ cột dây, đi chân trần, uống trà và hút thuốc othman, hoặc đi xem môn bản cầu (cricket) ở Lord. Một số ngày cuối tuần, căn nhà có nhiều người Bengal hơn, với bọn họ chúng tôi tự làm quen ở các tiệm bán rau trái, hoặc ở trạm tàu ngầm. Họ đến. Cùng nhau nấu thêm cà-ri trứng, chơi Mukesh trên máy quay Grunding, rồi ngâm các đĩa thức ăn bẩn thỉu vào bồn tắm. Thỉnh thoảng một người nào đó trong nhà dọn ra ngoài, sống với vợ, người đã được gia đình ở Calcutta quyết định hôn nhân cho anh. Năm 1969, khi tôi 36 tuổi, chuyện cưới hỏi của tôi đã được sắp đặt. Đồng thời, tôi được mời làm việc ở Hoa Kỳ, trong phòng xử lý của thư viện tại M.I.T. Mức lương rộng rãi đủ để nuôi vợ. Tôi vinh dự được tuyển dụng bởi một trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Tôi lấy thẻ Xanh và chuẩn bị cuộc hành trình xa xôi.

Đến lúc đó, tôi đã đủ tiền đi máy bay. Lần đầu tiên bay đến Calcutta, để dự đám cưới, một tuần sau đó, bay đi Boston để bắt đầu việc làm mới. Trong chuyến bay, tôi đọc tập “Hướng dẫn dành cho sinh viên đến Bắc Mỹ”, dù không còn là sinh viên, nhưng có ngân sách giống như nhau. Tôi biết được người Mỹ lái xe bên phải trên đường thay vì bên trái như người Anh. Họ gọi “lift” là thang máy và bận rộn với điện thoại. “Bạn sẽ sớm khám phá ra, nhịp sống ở Bắc Mỹ khác với ở Anh,” tập sách hướng dẫn cho biết, “Mọi người đều cảm thấy mình cần phải tiến lên tới đỉnh. Đừng mong đợi (rảnh rỗi) uống một tách trà Anh.” Khi máy bay bắt đầu hạ cánh trên phi trường Boston, phi công thông báo tin thời giờ địa phương, tin thời tiết, và tin Tổng thống Nixon tuyên bố một ngày lễ cho toàn quốc vì hai phi hành gia đã đặt chân lên mặt trăng. Một số hành khách hoan nghinh reo hò. Đối diện bên kia lối đi, tôi thấy một phụ nữ đang cầu nguyện.  

Đêm đầu tiên tôi ở lại Y.M.C.A. trong quảng trường Trung Tâm, Cambridge, một chỗ ở rẻ tiền do sách hướng dẫn giới thiệu, nằm trong phạm vi có thể đi bộ của đại học M.T.I. Căn phòng có một giường nhỏ, một cái bàn, một cây thánh giá gỗ treo trên tường. Tấm biển treo trên cửa cho biết tất cả các việc nấu nướng trong phòng đều bị nghiêm cấm. Một cánh cửa sổ vừa đủ nhìn ra đại lộ Massachusetts. Tiếng còi xe chói tai và kéo dài, hết đợt này đến đợt khác. Còi cứu thương và đèn quay chớp vô tận báo tin những trường hợp khẩn cấp. Xe buýt chạy liên tục rầm rầm, cánh cửa đóng mở vang lớn tiếng kêu cút kít suốt đêm. Tiếng động liên miên làm mất sự tập trung, đôi lúc tạo ra sự ngột ngạt. Tôi cảm nhận tận xương tủy như đã từng cảm nhận tiếng kêu réo giận dữ của phòng máy trên con tàu S.S.Roma. Nhưng ở đây không có boong tàu để lên trốn tránh, không có đại dương lấp lánh làm tâm hồn rung động, không có gió thổi lên mặt thật mát, không có ai để cùng trò chuyện. Thật quá mệt mỏi khi mặc đồ ngủ đi qua đi lại trên những hành lang u ám trong Y.M.C.A. Thay vào đó, ngồi xuống chiếc bàn nhìn ra cửa sổ. Sáng hôm sau, tôi đến trình diện nơi làm việc tại thư viện Dewey, một tòa lầu giống như pháo đài màu vàng nhạt bên đường Memorial drive. Rồi mở một tài khoản ngân hàng, thuê hộp thư bưu điện, mua một bát nhựa và muỗng. Đi siêu thị Purity Supreme, lần lựa đi lên đi xuống dọc các quày hàng, so sánh giá cả với những thứ ở Anh. Cuối cùng mua một hộp sữa và hộp mảnh bắp ngào khô (cereal). Đây là bữa ăn đầu tiên ở Mỹ. Ngay cả việc mua sữa cũng mới mẻ, ở London, người ta giao những chai sữa đến tận cửa nhà mỗi sáng.

Một tuần qua, tôi đã tự điều chỉnh được ít nhiều. Ăn bắp ngào và sữa cả sáng lẫn tối, mua một ít chuối để trộn thêm đổi bữa. Dùng cạnh muỗng cắt chuối cho vào bát. Cất hộp sữa trong phần bóng mát của thành cửa sổ, bắt chước những người ở trong Y.M.C.A. Cho qua thời giờ buổi tối, tôi đọc báo Boston Globe ở tầng dưới, một căn phòng rộng với cửa kính có hình màu. Cố gắng đọc hết các bài báo, các quảng cáo để quen dần mọi thứ chung quanh, cho đến khi mỏi mắt mới đi ngủ. Chỉ có tôi là ngủ không ngon giấc. Mỗi đêm, tôi mở rộng cửa sổ, nguồn không khí duy nhất cứu căn phòng ngộp thở. Nằm dài trên giường, nhét đầu ngón tay vào lỗ tai, nhưng khi chìm vào giấc ngủ, hai tay tự động rút ra, tiếng ồn xe cộ qua lại đánh thức tôi dậy. Những lông bồ câu bay dạt vào thành cửa sổ, và một buổi tối, khi tôi đang rót sữa vào bát bắp ngào, ngửi được mùi chua. Dù vậy, tôi vẫn quyết định ở lại Y.M.C.A. trong sáu tuần, chờ hộ chiếu và thẻ xanh của vợ tôi được cung cấp. Khi vợ sang, sẽ phải thuê một căn nhà thích hợp. Thỉnh thoảng đọc kỹ các mục rao vặt trên báo, hoặc ghé qua văn phòng cho thuê nhà của M.I.T. trong giờ ăn trưa để xem chuyện thuê mướn nhà cửa ra sao. Nhờ vậy, tôi phát hiện căn phòng cần cho thuê trong một ngôi nhà trên con đường phố yên tĩnh, vừa lên danh sách với giá tám đô la mỗi tuần. Dùng điện thoại công cộng, bấm số và phân biệt từng đồng tiền kẽm chưa quen, nhỏ hơn và nhẹ hơn đồng Anh, nặng và sáng hơn đồng Ấn.

Tiếng người phụ nữ bên kia đầu dây mạnh mẽ và sang sảng, “Ai vậy?”

“Thưa, chào bà, tôi gọi về việc phòng cho thuê.”

“Ở Havard hay Tech?”

“Xin lỗi ạ.”

“Ông từ Havard hoặc Tech?”

Tech có nghĩa là Viện kỹ nghệ điện tử Massachusetts, “Tôi làm việc tại thư viện Dewey ở Tech.”

“Tôi chỉ cho người từ Havard hay Tech thuê phòng mà thôi.”

“Vâng, cảm ơn bà.”

Có địa chì và giờ hẹn, bảy giờ chiều hôm đó. Nửa giờ trước cuộc hẹn, tôi lên đường. Mang theo sách hướng dẫn trong túi xách, xúc miệng với Listerine cho hơi thở thơm tho. Rẽ xuống một đường phố rợp bóng cây, nằm vuông góc với đại lộ Massachusetts. Bất kể trời nóng, tôi mặc áo khoác và đeo cà vạt, đối với việc này cũng như đi đến bất kỳ cuộc phỏng vấn nào. Tôi chưa bao giờ sống chung một nhà với người không phải Ấn Độ. Ngôi nhà đó, có hàng rào dây sắt bao quanh, màu trắng nhạt có đường viền nâu sẫm, một đám bụi cây Đầu Xuân trồng phía trước và bên hông. Khi bấm chuông, tiếng nhỏ nhẹ của người phụ nữ mà tôi đã nói chuyện qua điện thoại, từ phía bên kia cánh cửa, “Làm ơn, xin chờ một chút.”

Sau vài phút, một phụ nữ rất già và bé nhỏ mở cửa. Một khối tóc tuyết được sắp đặt như cái bao nhỏ dính trên đầu bà. Khi vào đến nhà, bà ngồi lên chiếc ghế gỗ dài ở cuối cầu thang có trải chiếc thảm hẹp. Khi đã ngồi vào vị trí, trong vùng ánh sáng nhỏ, bà chăm chăm nhìn tôi, không cách nào rời khỏi sự chú ý của bà. Mặc chiếc váy đen dài, trải rộng như chiếc lều cứng trẽn sàn, một chiếc sơ-mi trắng ủi hồ có vải phồng quanh cổ và cổ tay. Hai tay xếp lại trên đùi, những ngón tay dài xanh xao, các khớp xương sưng và móng tay vàng cứng. Tuổi tác đã mài mòn những đường nét phụ nữ, khiến bà gần giống một người đàn ông, đôi mắt nheo lại nhưng sắc lẻm, hai bên mũi đầy nếp nhăn. Đôi môi nứt nẻ nhạt màu, gần như tiệp vào khuôn mặt. Đôi lông mày không còn nữa, tuy vậy, trông bà rất dữ tợn.

Bà gần như ra lệnh, “Đóng lại.” Lớn tiếng dù tôi chỉ đứng cách đó vài bước. “Buộc sợi xích rồi bấm cái nút trên núm tay. Đây là việc đầu tiên khi anh bước vào nhà, rõ chưa?”

Tôi khóa cửa theo lời hướng dẫn rồi quan sát căn nhà. Bên cạnh ghế dài là chiếc bàn tròn nhỏ, chân bàn bị che phủ như người phụ nữ mặc chiếc váy ren. Trên bàn có một cây đèn, một đài phát thanh, một chiếc ví da nhỏ có móc cài bằng bạc, và một chiếc điện thoại. Một cây gậy chống lớn dựng bên cạnh. Bên phải, một phòng khách có nhiều tủ sát nhau  chứa đầy sách và đồ đạc tàn tạ. Trong một góc, tôi thấy chiếc đại dương cầm, cánh đóng xuống, chất đầy giấy tờ. Không thấy chiếc ghế ngồi chơi đàn. Hình như ghế đó bà đang ngồi. Đâu đây trong nhà, vọng ra tiếng đồng hồ điểm bảy lần.  

Bà nói, “Anh đến rất đúng giờ, tôi hy vọng anh cũng trả tiền tháng như vậy.”

“Thưa bà, tôi có thư giới thiệu.” lấy trong túi áo khoác, lá thư của M.T.I xác nhận việc làm, tôi đã mang theo để chứng minh, tôi đã thực sự đến từ viện kỹ nghệ điện tử.

Bà nhìn chăm chú vào lá thư, rồi cẩn thận trả lại, những ngón tay nắm chặt như nắm chiếc đĩa đầy thức ăn. Bà không đeo kính, tôi thắc mắc không hiểu bà có đọc được hay không. “Người thuê phòng trước anh, luôn luôn trả muộn. Vẫn còn nợ tôi tám đô la. Người từ Harvard không còn giống như trước đây. Chỉ có người từ Harvard và Tech mới được thuê ở trong nhà này. Viện kỹ nghệ điện tử như thế nào, cậu trẻ?”

“Rất tốt ạ.”

“Anh đã kiểm soát cửa khóa chưa?”

“Vâng, thưa bà.” Bà ta bẻ các ngón tay, dùng tay còn lại vỗ lên khoảng trống trên ghế dài, nói tôi ngồi xuống. Im lặng một lúc, rồi bà nói, làm như chỉ một mình bà sở hữu kiến thức này, “Lá cờ Mỹ đã cắm trên mặt trăng.”

“Vâng, thưa bà.” Cho đến lúc này tôi chưa nghĩ gì nhiều về tấm hình chụp mặt trăng. Dĩ nhiên, báo dăng đầy dẫy. Tôi đã từng đọc về các phi hành gia đã hạ cánh trên bờ biển Yên Tĩnh, du hành xa hơn bất cứ ai trong lịch sử văn minh nhân loại. Trong vài giờ họ đã thám hiểm trên mặt trăng. Họ thâu lượm đá cất vào túi, mô tả sự kiện chung quanh (một cảnh hoang tàn tráng lệ, theo lời của một phi hành gia), Họ trò chuyện cùng tổng thống qua điện thoại, rồi cắm một lá cờ trên đất mặt trăng. Cuộc du hành này được ca ngợi là thành tựu tuyệt vời nhất của con người.

Bà lớn tiếng, “Một lá cờ trên mặt trăng, này cậu trẻ, tôi nghe từ đài phát thanh, thật là tuyệt diệu, phải không?”

“Vâng, thưa bà.”

Chưa hài lòng với câu trả lời của tôi, bà yêu cầu, “Phải nói là tuyệt diệu, nói đi.”

Bối rối và hơi bị xúc phạm bởi sự đòi hỏi. Làm tôi nhớ lại lúc còn nhỏ bị học cửu chương, phải lập lại sau lời thầy giáo, những cậu bé ngồi xếp bằng trên sàn trong phòng học của trường Tollygunge. Cũng làm tôi sực nhớ ngày đám cưới của mình. Phải lập đi lập lại câu thơ tiếng Phạn liên tục sau vị chủ tế, những câu hầu như chẳng hiểu gì, để nối kết tôi và người vợ. Tôi im lặng.

Bà gầm lên, “Nói đi, tuyệt diệu.” Tôi lầm bầm, “Thật tuyệt diệu.” Rồi phải lập lại lần thứ hai lớn tiếng cho bà có thể nghe. Thật là miễn cưỡng phải la to như nạt người lớn tuổi, nhưng bà không hề tỏ vẻ bất mãn. Nếu có bất cứ điều gì, câu trả lời của tôi làm bà khoan khoái. Lệnh tiếp theo của bà là “Đi xem phòng.”

Đứng dậy, lần lên theo một cầu thang hẹp. Thấy năm cửa phòng, hai cửa ở hai bên ở hai bên hành lang hẹp một cách cân xứng, và cửa còn lại ở đầu đối diện. Chỉ một cánh cửa mở. Phòng có giường đôi, trần nhà nghiêng như con dốc, một tấm thảm bầu dục màu nâu, một bồn rửa bắt ống chảy lộ thiêng, một chiếc tủ có ngăn kéo. Một cánh cửa mở vào phòng treo áo quần, cánh cửa khác mở vào phòng tắm và nhà vệ sinh. Cửa sổ mở rộng, rèm lưới rung rinh gió thổi mát rượi. Vén màn lên nhìn ra khung cảnh: Có sân nhỏ, vài cây ăn trái, dây treo dùng phơi áo quần. Tôi cảm thấy hài lòng.  

Khi quay trở lại phòng trước, bà ấy lấy chiếc bóp nhỏ trên bàn, mở móc khóa, dùng ngón tay mò mẫm rồi lừa ra một chìa khóa dính trong chiếc vòng dây mỏng. Bà cho biết, có một bếp nấu ở phía sau nhà, phải băng qua phòng khách, tôi được hoan nghênh sử dụng với điều kiện khi dùng xong, bếp vẫn giống như chưa dùng. Khăn trải giường và khăn tắm sẽ được cung cấp nhưng gìn giữ chúng sạch sẽ là trách nhiệm của người thuê. Tiền nhà phải trả vào mỗi sáng thứ sáu, để trên nắp đóng của dương cầm. “Và không có phụ nữ nào đến thăm…” 

“Thưa bà, tôi là người đã lập gia đình.” Đây là lần đầu tiên tôi công bố tin này với một người khác. Nhưng bà không nghe, vẫn nhấn mạnh, “Không cô nào được viếng thăm.” Bà tự giới thiệu là “Bà Croft.”

Vợ tôi tên Mala. Cuộc hôn nhân được sắp đặt bởi anh tôi và chị dâu. Đối với đề nghị của họ tôi không phản đối cũng không nhiệt tình hưởng ứng. Chỉ là nghĩa vụ mà tôi phải làm giống như mọi đàn ông khác. Nàng là con gái của một thầy giáo ở Beleghata, nghe nói nàng nấu ăn rất ngon, may vá thêu thùa giỏi, vẽ phong cảnh và ngâm thơ Tagore, nhưng những tài năng này không thể bù đắp được cho chuyện nàng không sở hữu một làn da đẹp, vì vậy, đã có một loạt đàn ông thẳng thắng từ chối nàng. Ở vào tuổi 27, lứa tuổi mà cha mẹ nàng bắt đầu lo lắng cho con gái không thể kết hôn. Họ sẵn sàng đưa con đi nửa vòng địa cầu để giải cứu nàng thoát cảnh gái già.  

Trong năm đêm, chúng tôi ngủ chung một giường. Mỗi đêm, sau khi thoa kem lạnh và bím tóc, nàng nằm xoay lưng lại rồi khóc vì nhớ mẹ cha. Mặc dù, tôi sẽ rời quê nhà trong vài ngày tới, nhưng phong tục quy định, nàng đã là thành phần trong gia đình. Trong sáu tuần sau đó, nàng phải sống với anh tôi và chị dâu. nấu nướng, giặt giũ, dâng trà và bánh kẹo cho khách. Tôi không làm gì để an ủi. Chỉ nằm nghiêng trên mé bên kia giường đọc sách hướng dẫn bằng đèn pin. Có lúc, nghĩ đến căn phòng nhỏ bên kia bức tường vốn thuộc về mẹ tôi, bây giờ, gần như trống không. Cái mảng gỗ mà mẹ đã từng nằm ngủ, đang chất đống những giường và rương cũ. Gần sáu năm trước đây, khi chưa đi London, tôi đã chứng kiến cảnh mẹ qua đời trên giường đó, đã thấy bà vọc phân của bà trong những ngày cuối đời. Trước khi hỏa táng, tôi đã dùng chiếc kẹp tóc cạy sạch các móng tay của mẹ vì anh tôi không chịu đựng nổi. Tôi phải đóng vai anh cả để chạm ngọn lửa lên thái dương của mẹ, mục đích giải thoát linh hồn khốn khổ của bà được lên thiêng đàng.

Sáng hôm sau, tôi dọn đến nhà bà Croft. Khi vừa mở cửa, đã thấy bà ngồi trên ghế dương cầm, cùng vị trí ngồi chiều hôm trước. mặc cùng chiếc váy đen, cùng áo trắng ủi hồ, và đôi tay xếp vào nhau, đặt trên đùi, y như vậy. Nhìn bà không thấy gì thay đổi, tôi tự hỏi, không biết bà có ngồi tại chỗ suốt đêm qua. Tôi xách vali lên lầu, lo đi làm. Chiều tối, khi từ đại học trở về, vẫn thấy bà còn ngồi nguyên chỗ cũ.

“Cậu trẻ, ngồi xuống đây.” Bà vỗ vào khoảng trống trên ghế cạnh bên.

Tôi ngồi xuống, còn cầm túi hàng tạp hóa: mua thêm sữa, thêm bắp ngào, thêm chuối. Hôm trước, tôi đã kiểm tra ngoài bếp, không thấy xoong chảo gì cả. Chỉ thấy hai cái nồi trong tủ lạnh, cả hai chứa một ít nước cam và một cái ấm đồng trên lò.

“Chào bà.”

Bà hỏi tôi đã khóa cửa chưa, tôi trả lời đã làm như lời dặn dò. Im lặng một lúc. Rồi đột nhiên, bà tuyên bố, “Cậu trẻ, có một lá cờ Mỹ trên mặt trăng.”

“Vâng, thưa bà.”

“Lá cờ trên mặt trăng, tuyệt diệu phải không?”

“Vâng thưa bà.” Gật đầu, sợ hãi những gì sắp phải nghe.
“Nói đi, tuyệt diệu.”

Lần này, tôi ngừng lại, nhìn sang hai bên, đề phòng có ai đang lắng nghe, cho dù, biết rất rõ, căn nhà này không có người lạ. Tự cảm thấy mình như thằng ngốc. Nhưng đó là điều nhỏ để thắc mắc. Tôi kêu lên, “Thật tuyệt diệu.”

Trong vòng vài ngày, chuyện này đã trở thành thói quen. Vào mỗi buổi sáng tôi đi làm thư viện, bà trốn trong phòng ngủ ở phía bên kia cầu thang hoặc ngồi trên ghế dài, không để ý gì đến tôi, nghe tin tức hay nhạc cổ điển trên đài phát thanh. Rồi mỗi chiều tối khi tôi trở về, chuyện tương tựa lại xảy ra:

Bà vỗ lên băng ghế, ra lệnh cho tôi ngồi, tuyên bố có lá cờ Mỹ trên mặt trăng, tuyên dương rất tuyệt diệu. Sau khi tôi đồng ý tuyệt diệu. Cả hai ngồi im lặng. Thật là khó xử và đối với tôi, thời giờ dường như kéo dài vô tận. Thật ra, cuộc gặp gỡ như vậy chỉ kéo dài khoảng mười phút; chắc chắn bà sẽ chìm vào giấc ngủ. Bất chợt, bà gục đầu xuống phía trước ngực, như vậy, tôi được tự do lui về phòng mình. Lúc đó, dĩ nhiên, chẳng có lá cờ nào đứng trên mặt trăng. Tôi đã đọc báo, biết các phi hành gia thấy cờ rơi xuống, khi họ quay về trái đất. Nhưng tôi không nhẫn tâm để nói với bà.  Sáng thứ sáu, tuần lễ đầu, tiền thuê phòng đáo hạn, tôi đến chỗ dương cầm trong phòng khách để đặt tiền lên nắp đàn. Các phím đàn nay đã xỉn sắc, mất màu.

Khi nhấn một phím, không nghe âm thanh gì cả. Cất tám đô la vào phong bì, viết tên Mrs, Croft bên ngoài, Tôi không có thói quen để tiền ra ngoài không cần biết, không theo dõi. Đứng nơi này, có thể thấy hình dạng chiếc váy giống cái lều của bà dựng trong hành lang. Dường như không cần thiết để bà đứng dậy, đi đến nắp đàn để lấy tiền. Vì chưa bao giờ thấy bà đi lại, tôi cho rằng, cây gậy vẫn chống vào bàn tròn, có lẽ việc bà di chuyển rất khó khăn. Khi tôi tiến gần ghế dài, bà ngẩgn lên chú ý nhìn rồi hỏi,  “Anh muốn gì?”

“Thưa bà, đây tiền thuê phòng.”

“Để trên nắp đàn.”

“Tôi đang cầm trên tay.” Đưa phong thư đến trước, nhưng các ngón tay bà vẫn xếp vào nhau đặt trên đùi, không hề nhúc nhích. Hơi cúi xuống, hạ thấp phong thư, lơ lững trên bàn tay của bà. Sau một lúc, bà cầm lấy và gật đầu. Đêm đó, khi trở về, bà không vỗ ghế, nhưng đã quen thói, tôi vẫn ngồi bên cạnh. bà hỏi tôi đã kiểm soát cửa khóa, nhưng không nói gì đến lá cờ. Thay vào đó, bà nói:

“Anh thật tử tế.”

“Thưa bà, xin lỗi, bà nói gì?”

“Anh thật tử tế.”

Bà vẫn cầm phong thư trên tay.

Ngày Chủ Nhật, Nghe có tiếng gõ cửa phòng. Một phụ nữ tự giới thiệu, cô là Helen, con gái của bà Croft.

Cô bước vào phòng, nhìn kỹ từng vách tường như thể đang tìm dấu tích của sự thay đổi, liếc nhìn những chiếc áo treo trong tủ, mấy cái cà vạt móc lên nắm cửa, hộp bắp ngào trong ngăn tủ, bát muỗng dơ trong chậu. Cô thấp người, vòng eo đẩy đà, mái tóc bạch kim được cắt chải cẩn thận, son môi màu hồng tươi. Mặc áo đầm mùa hè lộ đôi cánh tay trần, đeo vòng cổ bằng hạt nhựa trắng, và đeo một chiếc kính mắt móc sợi dây xích đong đưa trước ngực. Phía sau chân nổi nhiều đường gân xanh màu sẫm, bắp tay chảy xệ như trái cà tím nướng. Cô nói, đang cư ngụ tại Arlington, một thị trấn xa hơn đại lộ Massachusetts. “Tôi đến mỗi tuần, mang thực phẩm và đồ dùng cho mẹ tôi. Bà đã mời anh dọn đi chưa?”

“Thưa cô, mọi chuyện vẫn tốt đẹp”

“Một số cậu trẻ bực bội bỏ chạy. Tôi nghĩ, bà ưa thích anh. Anh là người thuê đầu tiên mà bà gọi là người tử tế.” Cô nhìn, rồi để ý đôi chân trần. (Tôi vẫn có cảm giác không quen khi đi giày trong nhà, luôn luôn tháo ra trước khi vào phòng.) “Anh mới đến Boston, phải không?”

“Thưa cô, tôi mới đến Mỹ.”

“Từ đâu?” Cô nhướng lông mày.

“Từ Calcutta, Ấn Độ.”

“Vậy hả, khoảng một năm trước, có một anh ở Brazil thuê phòng ở đây. Anh sẽ thấy Cambridge là một thành phố quốc tế.”

Tôi gật đầu và tự hỏi không biết cuộc chuyện trò này kéo dài bao lâu. Ngay lúc đó, tiếng nói của bà Croft vọng lên từ cầu thang. “Các người xuống lầu ngay bây giờ.”

Helen lớn tiếng, “Chuyện gì?”

“Ngay bây giờ.”

Helen thở dài, “Để con mang giày đã.”

Tôi theo Helen xuống cầu thang. Hình như cô không mấy vội vàng, có lúc phàn nàn vì đau đầu gối. Helen hỏi lớn tiếng, “Mẹ đi không chống gậy, phải không? Mẹ không được đi nếu không dùng gậy.” Cô ngừng lại, đặt tay lên lan can, nhìn lui nói với tôi, “Thỉnh thoảng bà bị trợt chân.”

Lần đầu tiên, bà Croft có vẻ như dễ bị tổn thương. Tưởng tượng bà té xuống nằm ngửa trên sàn trước chiếc ghế dài, nhìn sửng lên trần nhà, hai đầu bàn chân chĩa ra hai hướng đối nghịch. Nhưng khi xuống đến chân cầu thang, thấy bà vẫn ngồi như thường lệ, hai tay vẫn xếp trên đùi. Hai túi đồ tạp hóa để dưới chân.Bà không vỗ xuống ghế, cũng không mời chúng tôi ngồi. Bà trừng mắt.

“Mẹ, chuyện gì vậy?”

“Không đúng phép tắc.”

“Phép tắc gì?”

“Đàn ông, đàn bà chưa cưới hỏi mà trò chuyện riêng tư không có mặt người khác, là không đúng.”

Helen nói, cô đã sáu mười tám tuổi, già đủ để làm mẹ, nhưng bà Croft nhất định bắt Helen và tôi phải trò chuyện dưới lầu, trong phòng khách. Bà nói thêm, không đúng lễ phép khi tiểu thư Helen bộc lộ tuổi tác và mặc áo đầm cao hơn mắc cá chân.

“Mẹ biết không, bây giờ là năm 1969. Mẹ sẽ phản ứng ra sao nếu một ngày nào mẹ ra đường thấy các cô mặc váy ngắn đến giữa đùi?”

Bà Croft khụt khịt, “Tôi sẽ bỏ tù các cô ấy.”

Helen lắc đầu rồi xách một túi tạp hóa lên. Tôi xách túi còn lại, đi theo cô băng qua phòng khách vào nhà bếp. Trong túi chứa đầy những lon súp, Helen dùng dụng cụ quay tay mở từng lon một. Bỏ bát súp cũ vào bồn, mở nước rửa sạch xoong, đổ đầy súp mới, rồi cất vào tủ lạnh. “Vài năm trước đây, bà vẫn tự mở lon. Bà không thích tôi làm giúp bà chuyện này nhưng cây đàn dương cầm đã giết chết đôi tay bà.” Cô đeo kính lên, liếc nhìn vào tủ, phát hiện các túi trà của tôi, “Chúng ta uống trà nhé?”

Tôi đổ nước vào ấm rồi đun sôi, “Thưa cô, xin lỗi cho tôi hỏi chuyện đàn dương cầm là như thế nào?”

“Bốn mươi năm trước, mẹ tôi từng dạy dương cầm. bằng nghề này, đã nuôi chúng tôi khôn lớn, sau khi cha tôi qua đời.” Helen chống hai tay lên hông, nhìn sửng vào tủ lạnh. Cô đưa tay vào trong sâu, lấy một cây bơ trong bọc giấy, cau mày ném vào thùng rác. “Như vậy là được rồi.” Cô nói rồi đặc các lon súp chưa mở vào tủ. Tôi ngồi xem Helen rửa bát đĩa dơ, buộc túi rác rồi đổ nước sôi vào hai cốc. Đưa cho tôi cuốc trà không sữa, rồi ngồi xuống bàn.

“Thưa cô, xin lỗi, như thế đã đủ chưa?”

Cô húp một ngụm trà. Son môi in lại một vệt hồng tươi trên vành cốc. “Đủ cái gì?”

“Súp trong xoong. Có đủ cho bà Croft dùng không?”

“Mẹ tôi không ăn gì khác hơn. Bà không ăn thức ăn đặc sau khi được 100 tuổi. Để xem, tức là ba năm trước đây.”

Tôi sửng sốt. Cứ nghĩ rằng bà Croft chỉ ngoài tám mươi, nhiều lắm là chín mươi. Tôi chưa bao giờ gặp người nào sống hơn một thế kỷ. Và người này là một góa phụ, sống một mình, càng làm cho tôi thêm mất hồn. Tình trạng góa phụ khiến mẹ tôi điên loạn. Cha tôi làm thư ký cho Tổng cục bưu điện tại Calcutta, chết vì bệnh viêm não khi tôi mười sáu tuổi. Mẹ tôi từ chối thay đổi cách sống không chồng. Thay vào đó, bà chìm sâu vào thế giới đen tối. Từ đó, tôi, anh tôi, những người thân, và các phòng khám bệnh tâm thần trên đại lộ Rash Behari đều không có cách nào cứu được bà. 

Điều khiến tôi đau lòng là nhìn thấy mẹ mất đi sự kiểm soát bản thân, ợ hơi hoặc đánh giấm trước mặt người khác mà không một chút ngại ngùng. Sau khi cha tôi qua đời, để duy trì sinh hoạt trong gia đình, anh tôi bỏ học và bắt đầu làm việc trong xưởng dệt sợi đay, từ từ lên chức quản lý. Nhiệm vụ của tôi là ngồi bên chân mẹ và ôn bài cho những kỳ thi, trong lúc bà đếm đi đếm lại những vòng đeo trên tay như thể đếm các hạt trên bàn tính. Chúng tôi cố gắng canh chừng mẹ. Có lần bà ở trần đi lang thang đến các kho hàng, trước khi chúng tôi đưa bà về nhà.

Tôi đề nghị, “Tôi rất sẵn lòng hâm nóng súp cho bà Croft mỗi buổi ăn tối. Không trở ngại gì.”

Helen nhìn đồng hồ rồi đứng lên, đổ hết trà vào bồn rửa. “Nếu tôi là anh, sẽ không làm như vậy. Đó là những thứ đóng góp vào việc giết chết bà.”

Tối hôm đó, Khi Helen ra về, chỉ còn bà Croft và tôi. Tôi bắt đầu lo lắng vì giờ đây đã biết bà quá già. Lo rằng có chuyện gì sẽ xảy ra cho bà lúc nửa khuya, hoặc ban ngày khi tôi vắng mặt. Tuy giọng nói đầy khí lực và uy nghiêm, nhưng tôi biết, chỉ cần một vết xước hay cơn ho cũng đủ giết chết một người chừng ấy tuổi. Mỗi ngày bà còn sống là mỗi phép lạ. Dường như Helen không quan tâm lắm, đến rồi đi, mang súp cho mẹ. Hết Chủ nhật này đến Chủ nhật khác, cứ như vậy, sáu tuần mùa hè trôi qua.  

Tôi vẫn về nhà mỗi tối, sau giờ làm việc ở thư viện. Ngồi mươi phút trên ghế dài với bà. Đôi khi, tôi ngồi rất lâu sau khi bà gục ngủ, vẫn cảm thấy kinh sợ cho những năm dài bà đã trải qua trên mặt đất. Đôi khi tôi cố hình dung thế giới mà bà đã ra đời năm 1866. Một thế giới tràn ngập phụ nữ mặc váy đen dài, chỉ chuyện trò trong phòng khách. Bây giờ, khi nhìn hai bàn tay sưng khớp xếp lại trên đùi, có thể tưởng tượng chúng thon gọn mượt mà, gõ lên những phím đàn. Đôi khi, trước khi đi ngủ, tôi xuống cầu thang nhìn chừng, liệu bà vẫn ngồi thẳng trên băng ghế hoặc đã vào phòng ngủ. Mỗi thứ sáu, tôi giao tiền thuê. Ngoài hành động này, tôi không thể làm gì khác hơn. Tôi không phải là con cái, ngoài tám đô la, tôi không nợ gì bà.

Đến cuối tháng Tám, hộ chiếu và thẻ xanh của Mala đã sẵn sàng. Nhận được điện tín về thông tin chuyến bay, nhà anh tôi ở Calcutta không bắt điện thoại. Đồng thời, cũng nhận được thư của nàng, chỉ viết vài ngày sau khi chúng tôi tạm biệt. Thư không có lời chào, xưng hô với tôi bằng tên, có thể là sự thân mật mà chúng tôi chưa khám phá ra. Thư chỉ viết vài dòng.” Em tập viết bằng tiếng Anh để chuẩn bị cuộc hàng trình. Ở đây em rất cô đơn, sống với trời lạnh. Bên anh có tuyết chưa? Em, Mala.”

Lời thư không làm tôi cảm động. Chúng tôi chỉ ở với nhau có vài ngày. Rồi bị ràng buộc vào nhau. Trong sáu tuần, nàng phải đeo một vòng sắt trên cổ tay, bôi bột vàng lên một phần tóc, để báo cho cả thế giới biết, đây là cô dâu. Trong sáu tuần đó, tôi dính dáng đến sự xuất hiện của nàng như thể bắt đầu một tháng hoặc một mùa mới, một chuyện không thể tránh khỏi, dù vô nghĩa ngay lúc đó. Tôi biết về nàng rất ít, trong khi những chi tiết trên mặt nàng đôi khi hiện lại trong trí nhớ, nhưng không thể gợi lên toàn bộ khuôn mặt.

Vài ngày sau khi nhận được bức thư, buổi sáng, khi đang đi làm, thấy một phụ nữ Ấn trên đại lộ Massachusetts, mặc chiếc áo sari, phần cuối áo thả lê lết trên bước đi, đẩy một đứa bé trong xe trẻ con. Một phụ nữ Mỹ dẫn con chó đen nhỏ bằng dây xích đi ngang một nên. Bỗng nhiên, con chó bắt đầu sủa. Bà Ấn Độ giật mình đứng lại, con chó chồm lên cắn chéo áo Sari. Bà Mỹ la mắng con chó, bày tỏ sự đáng tiếc, rồi vội vã bỏ đi, để bà Ấn tự sửa lại áo quấn và dỗ đứa bé đang khóc. Bà không thấy tôi đứng đó, sau cùng, bà tiếp tục lên đường. Thật là một bất hạnh, điều tôi nhận ra sáng hôm đó, trở thành mối quan tâm, bổn phận của tôi là chăm sóc Mala, tiếp đón và bảo vệ nàng. Phải mua cho nàng đôi giày ống đi tuyết, chiếc áo khoác mùa đông đầu tiên. Phải cho nàng biết phải tránh đi đường phố nào, đường nào nhiều xe cộ. Dặn dò nàng mặc áo Sari không để phần chéo rơi phất phơ dưới chân. Tôi nhớ lại, cảm giác khó chịu, chỉ cần năm dặm cách xa cha mẹ, đã khiến nàng chảy nước mắt.

Không giống Mala lúc đó, đối với tôi, tất cả trở thành thói quen, dùng bắp ngào và sữa, những lần Helen đến thăm, ngồi trên ghế dài với bà Croft. Điều duy nhất chưa quen, chính là Mala. Thế nhưng, tôi phải làm những gì phải làm. Đến văn phòng tìm thuê mướn của M.I.T. tôi tìm thấy một căn nhà đầy đủ tiện nghi, cách đó vài dãy phố. Có giường đôi, bếp, phòng tắm với giá bốn mươi đô la mỗi tuần. Ngày thứ Sáu cuối cùng, đưa cho bà Croft phong thư có tám đô la, mang vali xuống cầu thang, báo tin cho bà biết tôi phải dọn nhà. Bà cất chìa khóa vào túi chứa tiền lẻ. Điều sau cùng bà yêu cầu tôi là đưa cho bà cây gậy chống để bà có thể đi ra khóa cửa sau lưng tôi. Bà nói. “Thôi, tạm biệt.” rồi quay vào nhà. Tuy không chờ đợi đón nhận bất kỳ cảm xúc nào, nhưng tôi vẫn thất vọng. Chỉ là người thuê phòng, trả một ít tiền để ra vào nhà bà trong sáu tuần lễ. Một thời gian ngắn so với đời người sống hơn một thế kỷ, chẳng đáng gì.

Tại sân bay, tôi nhận ra Mala ngay lập tức. Chéo áo của nàng không lê lết trên đất, nhưng được phủ lên đầu theo dấu hiệu e lệ của cô dâu, giống như đã phủ lên mẹ tôi cho đến ngày cha tôi qua đời. Cánh tay thon da nâu được xếp một chồng vòng vàng. Một chấm đỏ vẽ lên giữa trán. Các mép bàn chân được trang điểm phết màu đỏ. Tôi không ôm, cũng không hôn, chỉ nắm tay nàng. Thay vào đó, hỏi bằng tiếng Bengali lần đầu tiên ở Mỹ, nàng có đói không. Do dự rồi nàng gật đầu.

Tôi nói, đã chuẩn bị cà-ri trứng ở nhà. “Họ cho em ăn thứ gì trên máy bay?”

“Em không ăn.”

“Từ Calcutta?”

“Thực đơn viết món súp đuôi bò.”

“Nhưng chắc phải còn vài món khác.”

“Nghĩ đến ăn đuôi bò, em không còn muốn ăn gì nữa.”

Khi về đến nhà, mala mở một vali, đưa cho tôi hai áo len tròng qua đầu, cả hai đều màu xanh lợt, nàng đã đan trong lúc xa nhau. Một áo có cổ hình chữ V. Áo kia đan nổi dây cáp. Bận thử, cả hai đều chật ở nách. Nàng còn mang cho tôi hai bộ đồ ngủ có quần rút dây lưng, một lá thư của anh tôi, một gói trà lá Darjeeling. Tôi chẳng có quà gì cho nàng ngoài trừ cà-ri trứng. Ngồi ở chiếc bàn không trải khăn, nhìn vào đĩa, ăn bóc tay, một điều mà tôi chưa thay đổi được ở Mỹ.  Nàng nói, “Nhà đẹp quá. Cà-ri trứng cũng ngon.” Tay trái nàng giữ chéo áo nơi ngực, không để tuột ra khỏi đầu.

“Anh không biết nấu nhiều món.”

Nàng gật đầu. Lột từng vỏ khoai tây trước khi ăn. Có một lúc, áo Sari tuột khỏi vai, nàng kéo lên lại ngay lập tức. “Không cần phải che mặt. Anh không quan tâm. Ở đây, không quan trọng chuyện này.” Nhưng nàng vẫn che như thường lệ.

Tôi chờ đợi để quen thuộc nàng, bên cạnh tôi, bên bàn ăn, trên giường ngủ, nhưng một tuần qua, chúng tôi vẫn là người xa lạ. Tôi vẫn chưa quen khi vào nhà nồng nặc mùi nấu cơm, bồn tắm luôn luôn lau sạch sẽ, hai bàn chải đánh răng xếp nằm cạnh nhau, bánh xà phòng Pears nằm trong đĩa xà phòng. Tôi không quen mùi thơm dầu dừa nàng xoa vào da đầu mỗi tối, hoặc âm thanh nhẹ nhàng của các vòng đeo tay vang lên khi nàng di chuyển quanh nhà. Sáng nào nàng cũng thức dậy trước tôi. Buổi sáng đầu tiên khi tôi bước vào bếp, nàng đã hâm nóng món ăn thừa, đặt trong cái đĩa với một muỗng muối trên mép đĩa, nghĩa rằng tôi sẽ ăn cơm cho điểm tâm, như hầu hết những ông chồng Bengali. Tôi cho nàng biết, ăn bắp ngào là đủ rồi. Sáng hôm sau, khi tôi vào đến nhà bếp, nàng đã đổ sẵn bắp ngào vào bát.   

Một buổi sáng, nàng đi bộ với tôi đến M.T.I. tôi đưa nàng đi thăm khuôn viên trường. Sáng tiếp theo, khi đi làm, nàng hỏi lấy vài đô la. Tôi đưa ra một cách miễn cưỡng dù biết đây là chuyện bình thường. Khi đi làm về, thấy một cái gọt khoai tây trong ngăn bếp, vài chiếc khăn trải bàn, món cà-ri gà nấu với tỏi và gừng tươi trên lò. Sau bữa ăn, tôi đọc báo, trong khi Mala ngồi ở bàn trong bếp đan áo ngắn tay cho nàng với len xanh hoặc viết thư về nhà.

Hôm thứ sáu, tôi đề nghị, đi chơi. Mala đặt chiếc áo len xuống, biến mất vào phòng tắm. Khi nàng hiện ra, tôi hối hận vì đã đề nghị. Nàng mặc áo Sari lụa, mang thêm nhiều vòng tay, bới tóc lên với một phần tóc phồng trên đầu. Nàng chuẩn bị như thể đi dự tiệc hoặc tối thiểu đi xem phim, nhưng tôi không có ý định như vậy. Buổi tối thật dễ chịu. Thả bộ ngang mấy dãy nhà, xuống đại lộ Massachusetts, ngắm cửa sổ các gian hàng và tiệm ăn. Rồi, vô tình, dẫn nàng xuống một đường phố yên tĩnh nơi mà nhiều đêm tôi đã lang thang một mình.   

Ngừng lại trước hàng rào dây xích, tôi nói, “Đây là nơi anh ở trước khi em đến.”

“Trông nhà lớn quá vậy?”

“Anh thuê căn phòng nhỏ phía sau trên lầu.”

“Còn ai sống ở đây?”

“ Một bà già rất lớn tuổi.”

“Với gia đình?”

“Một mình.”

“Ai lo cho bà?”

Tôi mở cổng. “Hầu hết, bà tự lo lấy.”

Tự hỏi, liệu bà Croft còn nhớ tôi, liệu bà đã có người thuê mới ngồi với bà mỗi tối. Khi bấm chuông, tôi dự tính phải chờ khá lâu như lần đầu tiên đến hẹn bà, khi tôi chưa có chìa khóa. Nhưng lần này, cô Helen cửa mở ra ngay. Không thấy bà Croft ngồi trên băng ghế. Chiếc ghế đã biến mất.

“Chào các bạn,” Helen nhìn Mala cười với đôi môi son hồng tươi sáng. “Mẹ tôi trong phòng khách. Các bạn sẽ ở chơi một lúc, phải không?”

“Vâng, thưa cô.”

“Tốt quá, tôi sẽ chạy đến cửa hàng mua ít vật cần thiết, nếu các bạn bằng lòng. Mẹ tôi bị thương nhẹ, nhưng không thể để bà một mình trong lúc này, dù chỉ vài phút.”

Sau khi Helen đi ra, tôi khóa cửa, rồi đi vào phòng khách. Bà Croft đang nằm ngửa, đầu gối lên chiếc đệm màu vỏ đào, một tấm chăn mỏng màu trắng trải ngang người. hai tay đan vào nhau trên ngực. Khi thấy tôi, bà chỉ vào ghế đệm, nói tôi ngồi xuống. Tôi theo lời chỉ dẫn, còn Mala đi đến chỗ dương cầm, ngồi lên chiếc ghế dài, nay đã trả về đúng vị trí. 

“Tôi bị bể xương hông.” Bà Croft tuyên bố như thể thời gian không hề trôi qua.

“Ôi trời, thưa bà.”

“Tôi té khỏi ghế.”

“Đáng tiếc quá, thưa bà.”

“Vào lúc giữa đêm, cậu trẻ, có biết tôi làm gì không?  

Tôi lắc đầu.

“Tôi gọi cảnh sát.”

Bà nhìn lên trần nhà và cười bình thản, để lộ hàm răng dài màu xám. “Cậu trẻ, có ý kiến gì về việc đó?”

Đang sững sờ nhưng tôi biết ngay phải nói thế nào. Không một chút do dự, tôi la lên, “Thật tuyệt diệu.”

Mala bật cười. Giọng nàng đầy ân cần, đôi mắt sáng ngời thích thú. Tôi chưa bao giờ nghe nàng cười như vậy trước đây. Bà Croft nghe thấy, quay sang Mala và trừng mắt.

“Cậu trẻ, ai vậy?”

“Thưa bà, cô ấy là vợ tôi.”

Bà Croft đẩy đầu vào một góc đệm để nhìn rõ hơn.

“Cô có biết chơi dương cầm không?”

“Không, thưa bà.”

“Vậy thì đứng lên đi.”

Mala đứng lên, sửa chéo áo Sari trên đầu và giữ ở ngực. Đây là lần đầu tiên kể từ khi nàng đến, tôi cảm thất đồng tình. Nhớ lại lần đầu tiên đến London, học cách đi tàu điện ngầm đến quảng trường Russel, lần đầu đi cầu thang tự động, không thể hiểu khi người đàn ông kêu lớn “Piper”, nghĩa là “giấy tờ”. Suốt cả một năm, tôi không giải đoán được, khi người soát vé nói, “Mind the gap” lúc tàu điện rời khỏi mỗi sân ga. Giống như vậy, mala đi xa nhà, không rõ nơi sẽ đến, sẽ nhìn thấy gì, không có lý do nào khác hơn là để làm vợ tôi. Tuy có vẻ lạ lùng, nhưng tôi biết trong thâm tâm mình, một ngày nào nếu nàng chết đi, sẽ kinh động đến tôi. Còn lạ lùng hơn nữa, cái chết của tôi sẽ kinh động đến nàng. Bằng cách nào đó, tôi muốn giải thích điều này với bà Croft, đang dò xét Mala từ đầu đến chân với vẻ khinh thị lạnh lùng. Tôi tự hỏi, liệu bà Croft có bao giờ thấy người phụ nữ mặc áo sari với dấu chấm vẽ trên trán và một dãy vòng xếp trên cánh tay. Liệu bà đang phản đối điều gì. Liệu bà có nhìn thấy màu nhuộm đỏ vẫn còn tươi rói trên chân Mala, đang lộ ra ngoài trừ bị phần mép dưới của áo sari che khuất. Sau cùng, bà Croft tuyên bố, theo kiểu bình đẳng trong nghi vấn và sự thích thú mà tôi đã quen thuộc: “Cô ta là một phụ nữ hoàn hảo.”

Bây giờ, chính tôi là người đang cười lặng lẽ, bà Croft không nghe, nhưng Mala nghe được, lần đầu tiên, chúng tôi nhìn nhau và cười. Tôi cho rằng khoảnh khắc trong phòng khách của ba Croft là khoảnh khắc mà khoảng cách giữa tôi và Mala thu ngắn lại. Mặc dù chúng tôi không hoàn toàn yêu nhau, nhưng tôi muốn những tháng tiếp theo được giống như tuần trăng mật. Cùng nhau khám phá thành phố, tìm gặp những người Benga khác, và một số đã thành bạn cho đến ngày hôm nay.

Chúng tôi tìm thấy người đàn ông tên Bill, bán cá tươi trên đường Prospect, và gian hàng trong quảng trường Havard, tên là Cardullo, bán nguyệt quế và đinh hương. Vào những buổi tối, chúng tôi đi bộ đến sông Charles để ngắm thuyền buồm thả trôi trên mặt nước, hoặc ăn kem trong sân Harvard. Mua một máy chụp hình để ghi lại hành trình sống bên nhau. Tôi đã chụp hình Mala đang làm dáng trước tòa lầu Prudential, để nàng gửi cho cha mẹ. Về đêm, chúng tôi hôn nhau, mới đầu hơi e thẹn nhưng nhanh chóng trở thành nồng nàng. Rồi phiêu lưu khám phá những niềm vui và khuây khỏa trong vòng tay nhau.

Kể cho nàng nghe chuyến đi trên tàu S.S.Roma, và công viên Finsbury với Y.M.C.A. Chuyện những buổi tối ngồi với bà Croft. Khi tôi kể chuyện mẹ tôi, nàng khóc. Chính Mala đã an ủi tôi, một buổi tối đọc báo Globe, tình cờ thấy cáo phó của bà Croft. Tôi đã không nghĩ đến bà trong mấy tháng nay, lúc bấy giờ, sáu tháng mùa hè đã trở thành quãng thời gian xa vời trong trí nhớ, nhưng khi biết tin bà qua đời, tôi bị xúc động đến nổi khi Mala ngẩng lên khỏi áo len đã thấy tôi lặng lẽ nhìn vách tường sửng sốt. Bà Croft là người chết đầu tiên ở Mỹ mà tôi thương tiếc. Là một cuộc đời đầu tiên mà tôi ngưỡng mộ. Cuối cùng, bà đã rời mặt đất này, cũ kỹ và một mình, không bao giờ trở lại.

Chuyện của tôi, không lạc lõng gì nhiều. Mala và tôi đang sinh sống trong một thành phố khoảng hai mươi dặm từ Boston, trên một đường phố rợp bóng cây như con đường qua nhà bà Croft. Chúng tôi mua căn nhà có phòng dành riêng cho khách, có vườn trồng cà, không cần phải mua vào mùa hè. Chúng tôi đã trở thành công dân Mỹ, có thể lãnh An ninh Xã hội khi về hưu. Mặc dù, vài năm một lần, về thăm viếng Calcutta, nhưng chúng tôi đã quyết định sẽ sống ở đó khi về già. Tôi đang làm việc tại thư viện của một đại học nhỏ, con trai theo học đại học Harvard. Mala không còn trùm đầu với áo sari, về đêm không còn hay khóc nhớ cha mẹ, nhưng thỉnh thoảng khóc vì nhớ con. Vì vậy, chúng tôi lái xe đến Cambridge thăm viếng hoặc chở con về nhà ăn cơm bốc tay lúc cuối tuần và nói tiếng Bengali. Tôi lo rằng con tôi sẽ không giữ được những điều này sau khi chúng tôi qua đời.

Bất cứ lúc nào lái xe đến Cambridge, tôi luôn luôn đi theo đại lộ Massachusetts, bất kể giao thông đông nghẹt. Bây giờ, hầu như khó nhận ra những tòa lầu xưa, nhưng mỗi khi đến đó, ngay lập tức sáu tuần lễ đầu tiên hiện về như mới hôm qua. Lái xe chậm lại, chỉ cho con xem khi ngang qua đường nhà bà Croft,  ngôi nhà đầu tiên ở Mỹ, tôi đã sống với bà cụ một trăm lẻ ba tuổi.

Mala nói, “Đang nhớ ngày xưa, phải không ?” Nàng mỉm cười, lạ lẫm, như tôi. Có những lúc chúng ta là những người xa lạ đối với mình. Con tôi luôn luôn tỏ vẻ kinh ngạc không phải vì tuổi bà Croft nhưng vì số tiền thuê phòng quá ít. Chuyện thực tế này đối với nó không thể tưởng tượng được như lá cờ cắm trên mặt trăng đối với người phụ nữ sinh năm 1866. Trong mắt nó, thấy được tham vọng vượt qua thế giới của tôi. Trong vài năm nữa, nó sẽ tốt nghiệp, sẽ tự khai phá đường riêng một mình đầy hung hiểm. Nhưng tôi tự an ủi, nó vẫn còn người cha, người mẹ hạnh phúc và mạnh khỏe. Bất cứ khi nào con tôi ngã lòng, mất tự tin, tôi sẽ nói, nếu tôi có thể tồn tại trên ba lục địa (*), thì không có chướng ngại nào mà nó không thể chinh phục. Trong khi các phi hành gia, những anh hùng bất tử, chỉ dùng vài giờ trên mặt trăng, tôi ở dưới thế gian gần ba mươi năm. Chỉ có thành tích khá bình thường.

Tôi không phải là người đàn ông duy nhất tìm kiếm sinh sống xa quê nhà, chắc chắc cũng không phải là người đầu tiên. Dù sao, vẫn có những lúc tôi băn khoăn về từng dặm đường đã trải qua, từng bữa ăn, từng người quen, từng căn phòng đã ngủ. Tất cả đều bình thường như đã xảy ra, nhưng có những lúc, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của tôi.

 

(*) Ấn Độ, Anh Quốc, và Hoa Kỳ ở ba lục địa khác nhau.


NGU YÊN dịch từ nguyên tác THE THIRD AND FINAL CONTINENT.