Thursday, July 6, 2023

2955. QUÁN RƯỢU KHÔNG BIA Truyện ngắn của nhà văn Ái Nhĩ Lan KEVIN BARRY (1969-…) - NGU YÊN dịch và giới thiệu

Nhà văn Kevin Barry (1969)

Tác giả của ba tuyển tập truyện ngắn và ba tiểu thuyết. "City of Bohane" tác phẩm đoạt giải International Dublin Literary Award năm 2013, giải thưởng cao quí nhất về tiểu thuyết xuất bản ở Anh quốc. Tác phẩm Night Boat to Tanger được đề nghị cho giải Booker Prize 2019.

Các giải khác:

2007: Rooney Prize for Irish Literature (There are Little Kingdoms)
2011: Costa Book Award, shortlist (City of Bohane)
2012: The Sunday Times EFG Private Bank Short Story Award (Beer Trip to Llandudno)
2012: Authors' Club First Novel Award (City of Bohane)[25]
2013: Edge Hill University Short Story Prize (Dark Lies the Island)
2015: Goldsmiths Prize (Beatlebone)
2020: Elected member of Aosdána
2022: Edge Hill University Short Story Prize (That Old Country Music)


Truyện Ngắn

QUÁN RƯỢU KHÔNG BIA
The Pub with No Beer

Thoạt đầu, anh không nhận ra giọng nói. Giữa buổi chiều kéo dài dường như vô tận, anh bước vào quán rượu bằng cửa bên hông nhẹ nhàng lặng lẽ như đi vô nơi chôn cất người chết. Bây giờ đã cuối tháng Ba, đồng hồ sắp phải đổi giờ, sức nóng đầu mùa quen thuộc khi anh anh kéo rèm che cửa sổ lên một chút cho nắng vào, để nhìn thấy bên trong. Ánh sáng có tác dụng ám chỉ sự sống. Hé cửa sổ cho mát mẻ rồi nhìn ra ngoài.

Trong vịnh, thủy triều dâng nước lên cao, những ghềnh đá sóng vỗ ầm ĩ, mõm đá đâm vào bầu trời quang đảng.

Michael Batt nói: "Nhẹ thôi, nhẹ nhẹ, xoay bánh lái nhẹ thôi. Tôi bảo đứa trẻ xoay từ từ, cho đến khi tôi xanh cả mặt, liệu nó có nghe lời không? Trong chỗ ngồi êm ái của tôi chắc nó sẽ nghe. Nó thừa hưởng tính khờ khạo từ người mẹ. Ngồi sau tay lái, giống như đang vật lộn với con khỉ đột khốn nạn."  

Kevin Barry đang kể chuyện ma và quán rượu ở Ái Nhĩ Lan.

Cậu trẻ đã lớn lên từ lâu và lái xe một cách chừng mực. Michael Batt, cha cậu đã qua đời lâu rồi. Nhưng chiếc ghế đẩu trong góc quán rượu vẫn mơ hồ là chỗ ngồi của ông. Từ nơi đó, sáu chiếc ghế đẩu khác sắp dài đối diện với các hàng ly và những chai rượu mạnh chưng bày bên kia dãy vòi rót rượu. Cha của anh gọi là các vòi đầu chó (*). Anh sẽ giải thích ngắn gọn, Cerberus, con chó canh cổng hỏa ngục.

Đầu bên kia quày rượu là cánh cửa sập treo màn đi ra sau bếp, tiếp theo, một hành lang u ám dẫn đến phòng vệ sinh. Anh mỉm cười trước những lời lẽ của Michael Batt, thái độ mặc nhiên chấp nhận lâu ngày được rèn luyện để phát huy tác dụng, những câu nói mà Batt đã luyện tập khi đi trên con đường ven biển hướng về phía ánh đèn quán rượu trong tất cả những buổi tối lạc lõng trước đây.

Anh ta bước ra sau quày rượu, đặt nhẹ tay lên vai nó, nhìn ra ngoài, nhìn căn phòng trống trải, chầm chậm đưa mắt từ trái sang phải. Anh nói, "Đến giờ rồi."

Lấy mảnh vải nhúng vào nước trong bồn cho ẩm ướt, lau dọc theo mặt quày bàn, lặng lẽ làm cho nó bóng lên. Mục đích của việc làm sạch bóng để chứng tỏ có lao động nhẹ nhàng. Hàng ngày, mặt quày bóng lưỡng để nhìn thấy các vân gỗ, các vết nứt, vết xước của thời gian. Quán rượu thuộc về gia đình đã bốn thế kỷ. Cha anh thừa hưởng từ người chú độc thân. Trong ba thể hệ đứng sau quày rượu, có cùng một bộ lông mày dày rậm, tối thiểu khẳng định vẻ lịch thiệp bên ngoài. Ánh nắng từ tốn len lỏi từng chút trên sàn nhà. Trong những lúc bình thường hơn, đó là khoảnh khắc những lớp tiểu học tan trường và anh bỏ lỡ những cuộc chuyện trò rất hào hứng từ sân trước vọng qua bên kia đường. Cả sự ồn ào và say xỉn trong quán rượu đều không được chấp nhận.

Cha của anh luôn luôn giữ ý nghĩ, "phải có một nơi như quán rượu để trầm tư."

Vắt sạch khăn ướt và để bên bồn rửa, cúi xuống sau quày rồi đi ra phòng vệ sinh. Dừng lại giữa chừng, chống tay vào tường để lấy thăng bằng. Một cảm giác khó chịu trào lên, căng phồng như nghẹt thở, có lẽ là một dạng phản ứng của kinh hoảng, nhưng qua nhanh, nhanh như những đám mây ngoài khơi Bắc Đại Tây Dương. Điện thoại reo, anh nheo mắt đọc, rồi dành ra nửa phút để gõ chữ trả lời cho một bà dì đang gặp trở ngại trong nhóm gia đình Whatsapp. 

Liệu bà ta có bao giờ ra khỏi nhà không?

Liệu bà có bao giờ chịu ngưng lên mạng lưới khốn nạn không?

Gia đình luôn luôn lắng nghe ý kiến đáng tin cậy cùa anh. Điều này càng gia tăng gánh nặng.

"Có thể là một trong bốn mươi hai điều xảy ra với tôi," Frank Waught với một ly Smithwick. "Có thể là chất cường toan trong dạ dày. Có thể là phấn hoa. Có thể tệ hơn cả hai thứ đó. Dĩ nhiên, cũng có thể vì sợ."

Ông Waught sống đến 92 tuổi, đã chết khoảng 50 năm trước. Ông là người thích bàn thấp hơn là ngồi cao bên cạnh quày, một người phản kháng xã hội, cần người ta tương tác. Từ hành lang, anh nhìn về phòng ngồi uống rượu, về phía những giọng nói đã mất. Năm chiếc bàn trống sáng lên trong ánh nắng tà. Tiếp tục, anh bước vào phòng cấm địa của quí bà với cảm giác ngần ngại. Mở cửa sổ trên bồn rửa, xịt thuốc Detto vào bồn cầu. Đưa khuôn mặt vào gần gương soi, thấy nó bành rộng, thở chậm rãi tạo ra hơi mờ, khi tan đi, thấy được đôi mắt anh già nua màu xanh lục. Các đường gân đỏ như bản đồ. Mũi quắm, kiểu mũi Pháp. Niềm kiêu hãnh khờ khạo; sự hư ảo của miên viễn. Đôi lông mày ngông cuồng của một người Thiên Chúa giáo bị ô nhục. Nhắm mắt lại. Một đôi môi dài gợi cảm đã vẽ trong gương.

Alice Nealon nói, "Con chó đặc biệt đó đi đến tôi một lần nữa, cũng được thôi. Mỗi đêm, tôi bách bộ vào lúc bảy giờ rưỡi, lần đó, tôi bắt gặp con khốn nạn này lao đến, nó có khuôn mặt dài hơn sân của Sullivan, đồ chó ngu! nó lê lết chạy đến! Lần sau, tôi sẽ đập vỡ mặt ngu nó."

Cô ta luôn luôn bắt đầu buổi tối bằng nửa lít bia đen, rồi một nửa lít nữa; sau đó ngừng lại suy tính. Cô sẽ tuyên bố bằng giọng giật nẩy rằng có thể uống thêm một lít. Thêm ba lần nữa trước khi cạn một ly Jameson đôi lúc 11 giờ. Ly này đưa cô ra cửa với khuôn mặt đỏ hồng, với lời lẽ lầm bầm khó hiểu nói với những con chó chung quanh.

Anh ra khỏi phòng vệ sinh đàn bà, vào phòng đàn ông. Suốt thời gian làm sạch chưa bao giờ có được mùi dễ chịu hơn. Đàng nào cũng mở cửa sổ. Mở vòi nước. Giật nước cầu. Mang găng tay cao su, cất ở túi sau, thay các viên thuốc tẩy trong bồn tiểu. Anh đái vào một bồn sạch như dị đoan cầu may mắn rồi tự bật cười thì thầm. Những lần như vậy anh vẫn thường cười một mình. Có điều gì vui nhộn một cách lạ lùng trong những lúc khó khăn. Anh đã đóng cửa gần 400 ngày rồi.    

Khi anh quay lại trong quán, cửa trước vang lên ba tiếng gõ từ tốn, hai tiếng gõ nhanh theo sau, như thể đang sử dụng mật mã. Anh đến cửa sổ, hé rèm nhìn ra, một người đàn ông mập ở tuổi trung niên đang nhìn ngắm vịnh, những cột cờ, và bầu trời. Không nhận ra ông là ai nhưng tâm trạng anh nhanh chóng trở nên u ám trong lúc đi đến cửa trước. Một người chủ quán kinh nghiệm là một độc giả tri thức về sắc thái của tâm trạng. Có khi nào, thần chết đang đứng kia không?

Khi anh mở cửa, người đàn ông quay lại với đôi mắt  ngờ vực của con cú và nói nhỏ như dế:

"Này, có con chim cu gáy phải không?"

"Ồ có. Trong bụi cây ngoài sân trường. Nó sẽ cho ông biết tất cả những gì về nó."

"Được, bóp nó nghẹt cổ đi. Anh có thể bán cho tôi nửa lít rượu không?"

"Tôi không bán được."

Ông ta hả miệng một cách phóng đại kiểu hề Vaudeville.

"Anh không được phép bán rượu mang ra ngoài?"

"Trong phố có vài chỗ bán, nhưng chỗ tôi không được. Tôi chưa có rượu nào cả."

"Khó khăn quá. Tôi nhìn thấy cửa sổ mở, nghĩ rằng có cơ hội mua rượu."

"Chẳng hại gì."

"Tôi nghĩ rằng anh không nhìn ra tôi?"

"Không, nhưng tôi cố gắng đoán ông đến từ nơi nào."

Đúng như vậy. Người lạ đang cố tình giữ khoảng cách hai mét và anh phải nheo mắt về hướng ánh nắng để nhìn ông cho rõ. Khuôn mặt già có nét người Trung Cổ. Đôi mắt trong, nghiêm nghị, ánh mắt có khả năng giết người nhanh chóng. Nhưng ông ta nói nghe dễ chịu.

"Tôi lớn lên cách đây không xa."

Sau đó, vẻ già lùi lại trên khuôn mặt người lạ, để nhường cho nét kịch sĩ O'Casey thành hình. Một gia đình nghèo từ con đường trải theo ven bờ biển buồn bã mà họ từng ở đó. Một trong những gia đình đã tan ra và biến dạng theo tám phương trời. Để lại sau lưng vết thương của ngôi nhà. Cái lỗ hổng của cánh cửa trống đã đứng trên đường ven biển qua nhiều năm như mời gọi những khổ đau chồng chất bên trong. Gia đình đã sống ở đó khoảng ba chục năm. Chẳng phải không có chuyện người cha nổi điên?

Anh hỏi, "Ông có phải là O'Casey?"

Người đàn ông cười bành miệng, hở môi trình bày bộ răng giả mới đầy hãnh diện.

Anh xác nhận ý tự suy đoán, "Còn lâu lắm ông mới bước ra khỏi cái bóng của mình."

Buổi chiều quy tụ vào sự yên lặng nặng nề. Con diệc đứng vượt thời gian trên tảng đá rêu phong. O'Casey nhìn qua vai anh vào không gian u ám quán rượu.

"Tôi muốn uống một ly whiskey?"

"Tôi đề nghị nếu ông không trả tiền."

Từ ngưỡng cửa, anh quay lại bước vào quán, hơi thở dồn dập hơn. Ra sau quày, lau ly rượu không cần đánh bóng rồi đặt dưới tầm mắt để rót đầy một mức rượu Powers. Từ ngưỡng cửa có người theo dõi anh suốt cả thời gian với nụ cười.

"Tôi không có đá lạnh. Thêm một chút nước không?"

"Tôi không cần."

Anh mang ly rượu ra và đặt vào tay người lạ.

"Tôi không nhớ ông là ai, chỉ nhớ, trong nhóm ông có một số người?"

O'Casey trả lời, "Đám trẻ chúng tôi có tám đứa. Cha anh đã đuổi tôi ra khỏi chỗ này vài lần.'

"Có thật không?"

Một lần nữa, ông xoay mặt về hướng vịnh, trầm ngâm về tháng ngày chậm rãi trôi qua mấy chục năm. Ông nhấm nháp một chút Powers, không bình phẩm lời nào. Thế giới trở nên yên tĩnh trong mùa kỳ lạ này. Dọc theo đường ven biển vắng vẻ, băng qua màu xanh tươi của các cánh đồng, trên vịnh nước trong xanh không có thuyền qua lại, không nhìn thấy một linh hồn nào.  

O'Casey nói, "Một đêm, từ nơi này, cha tôi trở về run rẩy. Tôi nhớ đã theo dõi ông ngồi nhìn đống lửa và cảm nhận được ông đang khó thở."

Vẫn đăm đăm nhìn ra vịnh, để đón nhận vẻ rạng rỡ mùa xuân tràn ngập. O'casey tìm lại được giọng nói người đàn bà trong quá khứ, mẹ của ông, nghe rất rõ.

"Joe, chuyện gì vậy? Sao vậy? Xin Chúa thương xót, Chúa có nói gì với con không?"

"Mẹ tôi luôn luôn lo lắng cho anh ta. Thần kinh của anh không được ổn định. Anh mắc phải cái thứ mà mẹ gọi là bùa ngải."

"Xin lỗi, con không nhớ gì cả …"

"A, không nhớ, con không nhớ gì. Con đã trốn khỏi trường nội trú."

Bí ẩn lớn nhất là cách người khác cảm nhận chúng ta. Quán rượu luôn luôn là cơ sở đáng tôn trọng. Anh không ngờ những người khác coi trọng gia đình anh như vậy. Nhưng cũng nhận ra, những ai bị buộc tội có hành vi hợm hĩnh thường phản ứng bất ngờ trước lời cáo buộc.

O'Casey nhanh chóng uống cạn ly whiskey, rồi đưa ly trống ra, nhưng khi anh với tay định lấy, ông rút ly lại, như thể đang đùa nghịch, mà không thấy nụ cười. Ông chỉ đặt ly xuống thềm, cạnh bàn chân rồi quay lưng bỏ đi.

Anh quay vào quán, khóa cửa, rồi ngồi xuống một bàn thấp, bộ dạng gọn gàng như khách hàng. Nhìn chậm rãi chung quanh quán trong một phút. Không ca hát, không đọc thơ, không nhìn thấy tình cảm lãng mạn. Đây là nơi dành cho các hiệu trưởng, những nông dân đáng kính, những luật sư của chính quyền. Sự đạm bạc của thế giới anh khép lại. Trong yên tĩnh như vậy, tất cả đều được phóng đại. Các tấm màn tuột mất; chính căn nhà cũng có thể sụp đổ. Vào cuối tháng Ba, ánh sáng biểu lộ vẻ tinh khôi còn mới.

Tim Godfrey nói, "Ông ấy muốn mua con chuột cho anh ở siêu thị Ballina. Một người cẩn thận, sẽ không tìm thấy như ý muốn. Có người cha như vậy, đủ nhức đầu.

Anh phải thừa nhận điều đó. Đã nhiều năm, từ khi Godfrey ám ảnh căn nhà, dưới chân dãy bàn thấp thấy ánh mắt hóm hỉnh. Godfrey là một nông dân thuộc giáo hội Ái Nhĩ Lan từ núi Ox, được cấy ghép vào cuộc hôn nhân kỳ lạ xuống đồng bằng vùng Bắc Mayo, từ sau nơi này, anh có thể nhìn thấy rõ ràng. Đúng ra cha anh là người cẩn thận. Lớn lên trong ngôi nhà với người đàn ông này, có thể nghe bản thân mình suy nghĩ. Không cần nói một lời nào, có thể cảm nhận được mình đang tự đo lường những nhiệm vụ có khả năng hiển thị. Hiện giờ, việc trong quán diễn ra chậm chạp.

Anh đứng dậy, ra sau quày, đặt một ly lớn dưới tầm mắt, rót đầy Bushmills cho mình, nhỏ vào bốn giọt nước pha loãng. Uống một cách say sưa để cảm giác ngọn lửa từ từ đi xuống bụng. Đã nhiều năm qua, anh mới có tâm trạng nhiệt tình như vậy. Sức nóng khuấy động anh mạnh mẽ. Cảm giác được cường độ sự bực bội khi còn trẻ. Anh không muốn nơi này, nhưng đã tự ép mình vào khuôn khổ. Nỗi oán hận đó, chưa bao giờ kể ra.

Một thái độ được đánh dấu bằng nhiệt tình, nghị lực hoặc lòng dũng cảm: hát với tinh thần của quân đội chiến đấu. Anh lắc đầu xua đuổi cảm giác và bước ra khỏi quày. Đi đến cửa sổ mở rèm thêm chút. Nhìn thấy vịnh rộng lớn hơn, những cột cờ Broardhaven thấp thoáng và chim Cốc được sắp xếp kiểu gô-tích trên nền đá màu đen lấp lánh. Thời gian không thể đo lường theo cách thông thường. Các điểm đánh dấu ngày và đêm đã không còn sử dụng. Trừ đi những thói quen, anh không còn là phương trình đầy đủ của chính mình. Buổi chiều, những lần đến quán rượu để tạo thói quen nhưng giờ đây đã thất bại. Càng ngày càng lấp đầy những tiếng nói cũ đã mất. Anh đi đến mở cửa trước, cúi xuống tìm nhưng không thấy ly rượu O'Casey để lúc nảy. Đóng cửa, khóa lại. Ngồi xuống bàn thấp. Mặt trời di chuyển vô tình chung quanh ngôi nhà, đột nhiên, ánh nắng tràn ngập căn bếp phía sau.

Ngồi tại chỗ, anh cảm thấy bị thu hút bởi ánh nắng. Nhiều giọng nói vang lên chung quanh, giọng này xen lấn với giọng kia, của Fred Coakley, Andrew Mac, Tess Hennebry …

"Tâm trạng tôi chỉ có hai tốc độ. Khi dễ tính, 10 dặm một giờ, hoặc 150 dặm, khi tôi hoàn toàn giận dữ, từ số không đến bùng nổ Hiroshima. Điều gì khốn kiếp đã khiến tôi như vậy?"

"Tôi sẽ ăn chứ? Tôi không biết mình sẽ ăn. Dù sao, ném cho tôi miếng bánh mì phải không? Tôi không nói sẽ ăn bánh. Mặc dù có thể ổn định trong một thời gian ngắn."

"Cha của anh lẽ ra phải làm linh mục. Nhưng không phải ông đã có một người anh? Cả hai người trong gia đình cùng làm."

Anh ta một mình với những tiếng nói. Muốn trốn xa họ. Muốn du hành qua chính bản thân và qua các cánh đồng của vịnh, xa hơn đường chân trời, vào xích đạo, vào ánh sáng.

Đứng lên, buồn bã, anh băng qua phòng rượu, vào bếp. Bếp luôn luôn là nơi tôn nghiêm của ngôi nhà. Kéo màn cửa, che khỏi tầm nhìn công cộng. Thời gian không thể từ ống chỉ tháo bật ra.

Tức giận khách hàng, có lẽ, bị một câu phê bình xúc phạm, nổi giận bởi ít nhận thức hời hợt, cha anh đã rút vào nơi này và lặng lẽ khóc. Để trở thành một chủ quán là một công việc suốt đời.

Cha anh nói, "Mọi người cần an tâm. Họ luôn luôn muốn nhìn vào biểu cảm trên mặt mình. Mình phải dàn cảnh khuôn mặt bất hạnh cho họ xem."

Cha anh sắp xếp phòng rượu theo một nhãn quan khéo léo, thực sự, gần giống một linh mục, ông cung cấp một nơi bình an và được xá tội, hoặc tối thiểu, đó là tấm lòng của ông. Ánh nắng chiếu xuyên qua  bếp giải tỏa sự u ám, trở nên hết sức nhẹ nhõm. Anh nhắm mắt trước quan cảnh này. Cố gắng tưởng tượng một đời sống khác, nhưng vô ích. Từ quày, một giọng nói bắt chước cách nói lắp bắp của phát ngôn viên trong siêu thị Ballina, quảng cáo giống bò thịt trắng, nghe không rõ. 

"B .. bốn mươi, b.. bốn mươi, suốt đường v... về  nhà … Bạn có biết gì về  bạ… n không? B..mươi … bốn   mươi  một … l   lần  có…có nó… bốn  mươi  lăm…"

Khi những người đàn ông cười đáp trả lời chế giễu nhẹ nhàng, lúc đó anh còn là cậu bé. Ngồi trên mặt quày bàn, hai chân đong đưa, cầm ly coke trên tay, một gói Taytos đã xé sẵn, để bên cạnh. Có lẽ, anh vào khoảng năm hay sáu tuổi. Đám đàn ông từ siêu thị trở về. Cha anh rót những vại bia đen cho đến khi chúng đến gần một phần ba vành miệng, rồi xếp đám ly trên mặt quày để lắng bọt khoảng một phút trước khi hoàn tất bằng biểu diễn những trang trí. Các tiếng nói trong phòng dễ nghe và có sức ấm áp lớn. Siêu thị chắc buôn bán tốt đẹp. Anh ta được chiều chuộng và quậy phá nơi này vì là con ông chủ. Một ông già nói, anh sẽ giàu có nơi siêu thị, để xem những gì anh sẽ bán. Lúc đó, anh đã biết trả lời chế nhạo. "Gertie, đứng dậy đi về đi."

Mùi than bùn và bia đen đã mở miệng đám đàn ông. Đội Mayo trong tình trạng thất thế. Có hai người bạn uống rượu suốt mùa đông. Khói thuốc lá Carroll và Majors phảng phất. Những chai nửa lít mang xuống từ kệ dành cho những người ba hoa nốc cạn một hơi. Các tờ báo gấp lại và cột cáo phó liếc nhìn ra vẻ thích thú. Anh biết cha anh cầu nguyện mỗi đêm. Có lần, anh nghe cha thì thầm trong khuya nói rất tự hào về Chúa và những việc Chúa làm. Không thấy,  nhưng nghe thủy triều dâng cao từ xa, dữ dội, những tiếng đập lớn kéo theo tiếng vọng trả lời sâu lắng, khi gió gào thét trong tâm trí cậu trẻ, những lá cờ bay phần phật trên bầu trời. Đó là thế giới của cậu thuở đó. Cậu là hoàng tử bất khả xâm phạm của phòng rượu.  

Anh chưa thể tự mình nói chuyện với Chúa. Đi từ nhà bếp vào lại quán, vắt chiếc khăn trong bồn. Những tiếng nói trong quán của thời gian gần đây làm anh mất thể diện. Họ tự bộc bạch bản thân lộ liễu một cách xấu hổ; thân xác của họ sắp trước quày  dáng dấp hổ thẹn. Anh cảm thấy, những tiếng nói trong thời gian gần đây bị pha màu bởi tham lam và thô tục. Anh đã đến lứa tuổi không may khi tin rằng những người trẻ là những kẻ man rợ.

Đóng cửa sổ và kéo rèm che ánh sáng cuối chiều tháng Ba. Tuổi tác đã bám chặt anh ta. Những tiếng nói nhỏ dần rồi không còn nghe gì nữa. Có thể anh ta sẽ bán cái chỗ khốn kiếp này.

Anh rời quán bằng cửa hông, đi bộ dọc theo bờ nước một khoảng. Anh sẽ không bao giờ bán được quán với giá mong muốn. Hầu như không thấy một gợn sóng nào trong vịnh. Không có một người nào. Băng ngang mặt nước xám như tảng đá, một cảm giác vô cùng tĩnh lặng, bằng cách nào đó, nhìn rất yên bình. Một lần nữa, bánh xe thời gian năm nay lăn chậm rãi.

(The New Yorker, ấn bản 11 tháng 4 năm 2022.)

(*) Cerberian là tính từ của Cerberus, trong huyền thoại Hy Lạp là con chó ngao ba đầu canh giữ cổng vào cõi chết.