Monday, August 14, 2023

2996. Hoàng Kim Oanh ĐOÀN VĂN KHÁNH, SÔNG KHÔNG DÀI VÀ TRỜI KHÔNG RỘNG


Chìm trong sâu thẳm trang kinh
Bỗng nghe trỗi dậy chút tình thế nhân
(ĐVK, 2005, Sáng muôn trăng, tr.78)

Nhận bản thảo tập truyện và ký đầu tay Ám ảnh đơn thân của nhà thơ Đoàn Văn Khánh, thật sự tôi không ngạc nhiên nhưng cảm động. Bởi năm năm nay, trên tập san văn học nghệ thuật Quán Văn (QV), văn xuôi Đoàn Văn Khánh vẫn thỉnh thoảng xuất hiện. Mỗi ghi nhận, mỗi mảnh đời góp mặt cho bức tranh nhân thế trong tập truyện và ký của ông là những trang viết ân tình, thật gần gũi, thật dung dị tự nhiên và không cảm động sao được khi bàng bạc trong mười một truyện ngắn, mười một ghi chép vừa phóng sự vừa hồi ký của người nằm trong nhóm chủ trương QV, trang nào cũng thấp thoáng khuôn mặt buồn vui chính mình, đâu đó bóng dáng từng bạn bè yêu thương và những khoảnh khắc đời nhau trong cõi nhân sinh vô thường “thân như điện ảnh hữu hoàn vô” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh). Thoạt lướt qua, xét chiều kích dung lượng các truyện có vẻ chỉ là những câu chuyện thường nhật không có gì to tát nhưng gói trong nó không ít oái oăm, không thiếu nghiệt ngã của từng kiểu người, từng lớp người trong xã hội hôm nay như bức tranh vân cẩu, cứ thế mà đi qua lăng kính không xám xịt cũng không rực hồng nhưng là chính nó với tất cả buồn vui vinh dự lầm than của kiếp người… nhờ độ lọc tinh nhạy, từng trải, giàu đức tin và ấm nồng yêu thương cuộc sống của người viết.

Từ địa hạt thi ca, quen chắt chiu từng khuôn vần, dồn nén từng khoảnh khắc cảm xúc bắt gặp qua một nhãn tự, nột hình ảnh chọn lọc, nay do nhu cầu ghi nhận lại các sinh hoạt của QV, Đoàn Văn Khánh đã đặt chân sang văn xuôi từ QV số 20, với những ghi chép đầu tiên trong Bước tới xuân hồng trình làng tháng 1 năm 2014. Đây cũng là số tất niên, cuối năm, không chỉ anh em văn nghệ sĩ trong nước tham dự, mà nhân dịp tết cổ truyền, nhiều bạn đọc bạn viết từ nước ngoài về thăm quê cũng hoan hỉ đến góp mặt. Lần sinh hoạt này, có thêm nhiều khuôn mặt mới, trẻ trung, đầy hứa hẹn một mốc chuyển hướng rộng mở đối tượng bạn viết, bạn đọc của QV. Bài ký pha bóng dáng tự sự đầu tiên mở cho người đọc thấy một Đoàn Văn Khánh tài hoa uyển chuyển trong dẫn chương trình các buổi sinh hoạt văn chương như thế nào thì ngòi bút của ông cũng đa dạng nhiều chiều khi những sự kiện rời rạc tưởng không liên quan gì nhau trong đời sống cũng được tác giả kết nối tài tình trong một cấu trúc. Hoá ra, việc gì cũng có nhân và quả, trùng trùng liên đới, ràng buộc quy định lẫn nhau nhân-quả, quả -nhân. Chỉ tám trang rưỡi giấy mà ngồn ngộn sự việc, chi tiết, tình tiết lẫn nhiều đoạn trữ tình ngoài đề, khi hóm hỉnh, khi hồn nhiên, khi chùng xuống đầy cảm xúc ngậm ngùi nao lòng người đọc, mở ra những trường liên tưởng mới, sâu lắng hơn cái vỏ ngoài âm thanh từ ngữ đơn nghĩa ấy. Mùa xuân hoa lá cây cỏ rạo rực, phong tục tập quán dân tộc ngày Tết cổ truyền hôn tang bao đời cũ - mới được - mất, với người sống, với người chết, vừa hiện thực vừa cảm nhận, rồi chuyện bạn xa bạn gần, bạn văn chương… Từng khuôn mặt, từng tính cách lẫn từng sự kiện nổi bật, mới nhất được thu gọn trong tích tắc cảm xúc có tên gọi cụ thể, đích danh làm tính hiện thực của thể ký nổi lên đậm nét. Một Trần Thiện Hiệp, một Chu Trầm Nguyên Minh, một Khuất Đẩu… vừa “tạm bình ổn thị trường sức khoẻ” (tr.80) và chuyện nhà, chuyện QV… cứ tuôn trào như dòng sự kiện hối hả những ngày cuối năm. Tôi vẫn không sao quên cảm xúc khi đọc bài ký nhiều chất tự sự này năm năm xưa, giữa bộn bề cảnh-người-việc ấy, tác giả vẫn không quên chen vào một đoạn độc thoại ngùi ngùi trìu mến chạnh tưởng người bạn đời tấm mẳn đã đi xa: “Lại một cái Tết nữa sắp đến nhưng mùa xuân có đi kèm theo không thì chưa biết. Dung bặt bóng đời lấp xấp bốn năm chắc đã thôi lạ lẫm cảnh trí mới ở chốn vĩnh hằng. Nơi đó hẳn là hợp với bản tính chân phác, đôn hậu của em. Không giả trá, lọc lừa, kênh kiệu, môi miếng như chốn trần gian, em nhỉ? Cửa hàng mã chỉ bán độc áo dài kiểu cổ. Chẳng có chiếc váy model nào hết. Chắc mai anh phải gửi trước ít vải vóc, tiền đô cho em kịp may sắm chút điệu đàng với xuân chứ để mùng ba mới hóa vàng thì đâu còn Tết nữa…” (tr. 79)

Chỉ bảy dòng thôi, chân dung người hiền thê chân phác, đôn hậu và chắc là dịu dàng xinh đẹp nữa hiện lên thật đằm thắm, cạnh hình ảnh một ông chồng chu đáo hết lòng quan tâm vợ qua những tính toán sắm sửa cho nàng cứ như không hề có ranh giới âm dương. Giọng kể theo trình tự thời gian có vẻ rất bình thường như quy luật tuần tự ngày tháng năm, song qua những thì thầm đối thoại cùng quá khứ không thể tìm lại được ấy, người đọc giàu tưởng tượng còn có thể hình dung cả những chuỗi ngày êm đềm hạnh phúc mà hai người từng có… Riêng ba câu cuối, đọc mà không khỏi bật cười vì cách nói dí dỏm nghịch vui, thật thật giỡn giỡn chứa chan âu yếm, nhưng khi dấu chấm xuống hàng qua rồi…, sao mắt lại cay cay…

Phong cách văn xuôi “truyện lồng truyện” rất Đoàn Văn Khánh cả trong ký và truyện ngắn xuyên suốt tập Ám ảnh đơn thân chúng ta đang cầm trên tay xin tạm gọi vui là “N trong một”. Ranh giới không gian và thời gian nhiều khi nhảy cóc hoặc được xoá nhoà miên man xuyên suốt trong dòng độc thoại nội tâm nhiều trăn trở, cật vấn của người trần thuật – cũng chính là nhân vật xưng ‘tôi” – đã gây ấn tượngtừ bài ký đầu tiên này với tôi.

         Mỗi chuyến đi, ngoài mục đích “đi cho biết quê hương”, tìm hiểu thực tế, thư giãn ‘trị liệu nhóm” (tên một truyện ngắn của nhà văn Italia Elena-Trương Văn Dân dịch), gắn kết những cây bút đã có duyên đến và chấp nhận trụ lại chia ngọt sẻ bùi cùng Quán Văn, anh Nguyên Minh và ban tổ chức còn hướng đến đích cuối cùng là tìm thăm lại những anh em văn nghệ sĩ neo đơn, cao tuổi heo hút các vùng miền, thân hữu một thời từng gắn bó nghiệp văn chương trên những trang Ý Thức, Quán Văn. Kể cả những bạn văn bên kia bờ đại dương cùng chung tiếng nói, tiếng lòng. Chỉ riêng năm 2014, sau Bước tới xuân hồng (QV20), ngay số tiếp theo: Phải Hôn Sài Gòn (QV21), rồi Reo cùng Sơn Núi (QV 25) - chuyến xuất hành đầu tiên của QV nhân mùa Vu Lan về Phương Bối Am thăm Sơn Núi - Nguyễn Đức Sơn đầy kỷ niệm, Khoảnh khắc lắng sâu (QV 26) với nhà thơ Hoài Khanh ở Biên Hoà… liên tiếp xuất hiện trên trang báo QV. Năm sau, vẫn đầy sự kiện và cảm xúc trong Bước ngoặt (QV32), kể về chuyện đời một người bạn đang yên lành vui sống sôi nổi, bi kịch đơn thân bắt đầu từ khi goá vợ, Hồ Thanh Ngạn suy sụp cả tinh thần lẫn thể xác, và cuối cùng ra đi trong đau đớn cô độc. Lâu nay người ta viết nhiều, nói nhiều về tình cảnh người phụ nữ đơn thân. Đoàn Văn Khánh đi theo chiều ngược lại. Nỗi cô đơn, tuổi già, bệnh tật và cái chết đưa nhân vật kể chuyện “tôi” chìm vào dòng độc thoại đầy trăn trở hết sức chân thành: “Tự nhiên tôi liên tưởng đến mình và trái tim có phần trĩu xuống. Đã thuộc lớp “nhi nhĩ thuận”. Cũng đơn lẻ nhiều năm. Mấy lần đám bạn hữu, anh em, con cháu gợi ý nên bước thêm bước nữa vì dù sao “con nuôi cha đâu bằng bà chăm ông”. Tôi nào phải thánh nhân, thi thoảng đắp đổi vài mối tình vắt vai cho qua ngày đoạn tháng chứ tìm người bạn đời tâm đầu ý hợp sao khó quá!” (tr.107). Ám ảnh này đâu phân biệt đàn ông hay chỉ dành cho phụ nữ. Phái mạnh, có ai hiểu cũng không kém phần tâm tư bối rối…

         Nhiều cảm xúc trong Qua một chuyến đi (QV 34), một kiểu đơn thân hình thức khác của Trần Hoài Thư và cái chết đột ngột ‘vừa chia tay nhau đã nhận ai tín từ Maryland” của nhà văn Phùng Nguyễn, cho đến nay vẫn còn rung lên trong những dòng thơ có “tiếng thở dài sâu hun hút” của chính tác giả:

Môi em nói lời thật buồn
         Bụm tuyết trên tay giá buốt
         Tiếng thở dài sâu hun hút
         Thơ tôi nói lời thật buồn
        (ĐVK, Môi em nói lời thật buồn)

         Những dòng lệ nóng (QV 43) số Xuân Đinh Dậu chủ đề về nhà văn Nguyên Minh là những ghi nhận, quan sát tinh tế, miêu tả khá trung thực chân dung tận tuỵ của người chủ biên QV coi tờ báo không chỉ là công việc mà là đam mê, là niềm vui, là lẽ sống. Bài ký còn lồng vào bức chân dung ấy một góc con người tình cảm trong veo đến hồn nhiên và những phút xúc động rơi lệ đẹp chân thành đến cảm động của cánh chim đầu đàn QV. Bẵng khá lâu, tác phẩm ký sau cùng, gần đây nhất trên QV 51: Sài Gòn một sáng trời vui, ngòi bút của ông dừng lại ở một khoảnh khắc tình cờ. Chỉ khoảnh khắc thoáng qua nhưng niềm vui lại lan toả dịu dàng đến nỗi theo vào trang viết. Đó là một buổi café ấm áp nhân chuyến trở về của người bạn ‘nối khố” từ phương xa, vừa hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất đã vội vã alô tìm gặp nhau ngay mà tôi là người được dự phần và chứng kiến. Một tình bạn hồn nhiên trong trẻo đẹp đến xúc động. Cả giây phút ngỡ ngàng hạnh phúc khi mẹ con cô bé ngồi bàn bên cạnh đến xin chụp một tấm hình chung với ba bác đội bê-rê để làm quen vì các bác nhà văn nói chuyện hay quá và dáng vẻ nghệ sĩ sao giống ông ngoại con quá…

         Toàn tập Ám ảnh đơn thân tuy về số lượng vẫn được chọn đồng đều 11/11 giữa ký và truyện nhưng theo tôi, ranh giới cũng rất tương đối, và sức đọng lại lòng người hơn cả là thể loại thứ hai. Tác giả nghiêng hẳn về số phận của những người phụ nữ trong cơn lốc xoáy biến thiên của thời đại. Mỗi truyện như một bức chân dung nhân thế đưa người đọc qua bao cung bậc hỉ nộ ái ố oan nghiệt đớn đau của dòng đời. Cũng năm 2014, đọc QV 27 (tháng 11) số chủ đề về tác giả Bửu Ý, người đọc bất ngờ gặp một truyện ngắn cùng tên với tập truyện, hoàn toàn khác lạ, mới mẻ, cuốn hút từ chất liệu hiện thực, cách dựng truyện và giọng điệu trần thuật nhiều trăn trở đa thanh đa chiều. Câu chuyện về cô giáo Loan thời bao cấp khó khăn đã “chấp nhận hy sinh lìa bục giảng bước ra chợ trời” mạnh mẽ tháo vát không chút nệ hà “Từ xe nước mía đến cà phê vỉa hè, gánh bún bò Huế, quán nhậu bình dân… bụng chửa vượt mặt đứa con gái đầu lòng vẫn bưng bê hầu thiên hạ, cả ngày chưa kịp một lần soi gương xem mặt dính mấy quệt lọ nồi…” (tr.160), chẳng mấy chốc Loan và gia đình đã đổi đời. Tưởng đã qua cơn bĩ cực để sống những ngày sung sướng thì chuyện đường con cái đã dẫn đến chuyện chồng ngoại tình với học trò và điều tan vỡ tất yếu phải đến. Cái mới ở đây được tác giả phân tích tài tình không phải những định kiến xã hội ràng buộc đè nặng cuộc đời người phụ nữ khi phải quyết định đi bước nữa cho hạnh phúc bản thân mà còn chính là những tổn thương đã hằn trong tâm thức Loan khiến cô sau những phút nồng nàn quên cả vũ trụ chung quanh với Văn bỗng sợ hãi quyết định dừng lại cuộc phiêu lưu. Diễn biến tâm trạng giằng xé đến đối lập của Loan sợ hãi dị ứng cuộc sống hôn nhân, “chỉ muốn hai người mãi mãi là tình nhân” cũng là một phản ứng tâm lý khá logic. “Trong im lặng, nhưng từ đáy lòng nàng nôn nao muôn ngàn cơn sóng, nửa muốn đẩy ra xa và nửa muốn kéo lại gần, sự thèm muốn được chở che và cái tham vọng tự mình đứng thẳng lên, hai suy nghĩ ngược chiều giằng xé Loan…” (tr.169). Hình như đây cũng là truyện ngắn đầu tay của Đoàn Văn Khánh đăng tải trên Quán Văn. Có thể thấy, ngay từ truyện thử bút đầu tiên, tác giả đã đi vào một mảng đề tài thời sự đầy tính nhân văn đem lại cho người đọc nhiều trăn trở rất thật, cho thấy khả năng miêu tả tâm lý và tái hiện hiện thực khá thành công.

         Từ QV 51 đến QV 63, 11 truyện ngắn của Đoàn Văn Khánh đều đặn có mặt mỗi kỳ với một sức sáng tạo phong phú bất ngờ. Mỗi truyện đưa người đọc đến một suy ngẫm về vòng nhân quả-quả nhân của con người trong cuộc trầm luân. Ưu ái của ngòi bút Đoàn Văn Khánh vẫn dành cho những người phụ nữ trẻ trong Ám ảnh đơn thân, những Trân, Lý, My, Loan… Họ đều là những người đàn bà đẹp người đẹp nết, khi gặp hoàn cảnh túng quẫn thời bao cấp, ngăn sông cấm chợ đều đảm đang tháo vát hy sinh ‘buông sách vở lao ra vỉa hè với gánh hàng rong” để vun vén cho gia đình không tiếc gì bản thân, nhan sắc, tuổi trẻ…, suy nghĩ hành động bởi tình yêu và hoàn toàn trong khuôn khổ đạo lý Á Đông. Những đòi hỏi hạnh phúc cá nhân có bùng lên cũng nhanh chóng nhường chỗ cho bổn phận và trách nhiệm. Nhưng hoàn cảnh và thời cuộc đã đẩy họ vào những bi kịch gia đình đổ vỡ bi đát. Trong đó, tác giả cũng công bằng, không đổ tội hoàn toàn cho những người đàn ông hời hợt, trăng hoa, thiển cận, vô tâm, bạc nhược đáng trách …như Cung, Viên, hay Diên, hay Văn… Còn có cả thói ích kỷ nhỏ nhen đàn bà đến tàn nhẫn như bà vợ ông Ngãi trong Để tang người đâu cứ dải khăn sô khi cấm cửa Lý, cô vợ trẻ bằng tuổi con của ông chồng có chức phận, địa vị xã hội nhằm giữ danh giá cho gia đình. Còn có cảnh ca dao xưa từng phê phán ‘Một trăm ông chú không lo/Chỉ lo một nỗi mụ o nhọn mồm” trong Qua cửa Thần Phù khiến Trân vị nghĩa hơn vị tình mà lấy Cung, cay cực đủ điều, rồi không tiếc công sức cưu mang đùm bọc cả nhà chồng mà vẫn bị mẹ và em chồng dèm xiểm đến phải “lẳng lặng bế đứa con đầu lòng chưa kịp đầy năm về nhà ngoại…”. Hay còn có cả những định kiến môn đăng hộ đối, ràng buộc tín ngưỡng tôn giáo như Nhan-Vinh trong Hạt lệ như sương cha mẹ không cho lấy người khác đạo, hay Sim-Phương trong Con mắt còn có đuôi. Có người yếu đuối dám yêu mà không dám mạnh mẽ bảo vệ tình yêu, “vượt qua số phận, dẫm bẹp nghịch cảnh để được sống trọn đời bên nhau” (tr. 138) như Nhan đối sánh với Trương, cô sinh viên Nam Bộ đã thẳng thắn từ chối Tám- cán bộ Thành Đoàn nhỏ nhen để được lấy Nguyên, người mình yêu. Kết cuộc có hậu Trương được hạnh phúc chính là thông điệp mà tác giả muốn gửi gấm. Đề tài nhẹ nhàng mà nhức nhối đời thường. Tác giả đã thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể hư cấu của thể loại và những chuyện đời thường của hiện thực xã hội bằng ngôn ngữ trần thuật gần với ngôn ngữ đời sống khiến truyện có hư cấu mà vẫn thực. Có vẻ như ông đã chắt lọc từ nhiều mảnh đời chung quanh với một vốn sống phong phú trải qua nhiều không gian Sài Gòn, Ban Mê, Nha Trang…

Một điều thú vị trong hệ thống nhân vật nam ở tập truyên này mà người đọc dễ dàng nhận ra là những mẫu người trượng phu đầy nam tính. Tôi chú ý điều này bởi hình tượng những người phụ nữ vốn vẫn quen thuộc trong văn thơ ngầm hiểu tượng trưng cho sự đảm đang chịu thương chịu khó, cho cái đẹp, cái tốt… theo một công thức sẵn có. Và cũng theo công thức miêu tả rập khuôn đó, người đàn ông và hoàn cảnh là hai yếu tố đối lập, nguyên nhân nỗi khổ của đàn bà. Nhân vật ông Ngãi trong truyện ngắn thứ hai của tập này là một kiểu dám sống thực, dám từ bỏ chức vụ, nhà lầu xe hơi vợ đẹp con khôn, bỏ nhà với hai bàn tay trắng theo tiếng gọi tình yêu cùng Lý. Tuy chuyện có tập 2 ruồng bỏ vợ nhà không phải là điều đáng khuyến khích, nhưng khi lỡ đèo bồng thì dám chịu trách nhiệm và dám sống nghèo sống cực bảo vệ điều chọn lựa theo trái tim mình cũng là hành động đáng trân trọng của kẻ nam nhi. Hay nhân vật ông Can trong Phụ nữ không lạ… mới là lạ tuy chỉ là rổ rá cạp lại nhưng rất quân tử trong tình yêu dành cho Thy, yêu theo nghĩa tôn trọng, tin tưởng vợ. Có ai lại đang đi Đà Lạt du lịch hấp hôn cho tình thêm thắm thiết với vợ, trở về chốn cũ đã chủ động gọi tìm người cũ của vợ và thoải mái “cười cười nói khẽ vào tai vợ: Hai người gặp nhau trước cho tự nhiên. Anh về phòng xem bóng đá. Sẽ chạm ly với anh ấy sau.” (tr.106). Không đơn giản gì có thể xử sự đẹp và đường đường tự tin như thế. Ông Phương trong Con mắt còn có đuôi dù trong thời binh lửa sống nay chết mai, dù đang tuổi xuân phơi phới, một dịp đi dã ngoại cùng Sim, cô gái ngây thơ sẵn sàng dâng hiến giữa cõi yêu mời gọi “Không gian này, thời gian này như chỉ dành riêng cho họ. Nụ hôn đầu đời con gái, vụng về mà nồng nàn ngây ngất. Nàng lả người trong vòng tay tình ái. Cơ thể run lên bần bật. Đôi mắt khép lại đợi chờ. Thương quá đi thôi, Phương chợt thấy không nỡ đành lòng dấn thêm bước cuối, kịp dừng lại khi chớm mấp mé bờ mê…” (tr.157). Sống có nguyên tắc và trách nhiệm. Yêu và biết trân trọng vẻ đẹp trinh nguyên lãng mạn của tình yêu, yêu và gìn giữ cho người mình yêu… Sao mà đẹp còn hơn cổ tích, thời 4.0 này người ta yêu qua mạng, làm tình bất kể yêu hay không và không bận tâm trách nhiệm và goodbye nhau cũng thật dễ dàng vì hai chữ ‘không hợp”. Tôi yêu những nét đẹp nhân cách quý giá đó và càng đọc truyện của Đoàn Văn Khánh tôi càng liên tưởng về một nền giáo dục đẹp đẽ mà ông bà cha mẹ chúng ta bao thế hệ vẫn trân quý giữ gìn.

Tất nhiên, tôi cũng nghĩ tới Vòng tròn có một cái tâm, một trong 22 truyện và chuyện của Ám ảnh đơn thân đã là một minh chứng xúc động, một bài học về cách dạy con của ông Tuỳ dành cho Nghi. Nghiêm khắc nhưng đầy yêu thương. Nguyên tắc nhưng lại mềm dẻo có lý có tình xuất phát từ mục đích duy nhất: dạy con biết tự cân nhắc lựa chọn quyết định đúng đắn, không áp đặt nhưng phân tích định hướng cho con biết điều hay lẽ phải. Ngược lại là cách Nghi dạy Nghiêm, cháu nội ông chính là thông điệp nhà giáo Đoàn Văn Khánh trăn trở gửi đến người đọc hôm nay.

    Biệt tài của tác giả Ám ảnh đơn thân là nghệ thuật miêu tả. Nhiều đoạn hay như phần cuối tả sự đau đớn vật vã của Lý trong Để tang người đâu cứ dải khăn sô. “Lý đang ngồi coi cuốn album hình kỷ niệm cùng mấy bà hàng xóm đột ngột bước tới “Các bác cho phép em uống thay bố Ngãi”. Cô nốc một hơi cạn chén đắng, rót thêm chén thứ hai, rồi chén thứ ba vẫn nốc cạn và phá lên cười rũ rượi. Đầu tóc đang bới gọn bổng xổ tung. Tấm áo bà ba trắng ôm sát thân chợt bung vài chiếc nút bấm, thoáng hiện cồn ngực căng vồng lên tươi mát. Đầy sinh lực. Vẻ man dại, khiêu khích ma quái như hồn oan.” Lột tả tài tình chân thực nỗi đau của cô gái trẻ, chồng chết mà cả để tang cũng không được.

Hay cảnh đôi vợ chồng trẻ phải ‘hợp cẩn’ ngay trên ghế đá một góc khuất nhà xác. “Cả hai thân thể thanh xuân mới đầu còn e ấp ngượng ngùng, vừa hôn vừa run run sợ sệt đủ thứ; đến khi dợm bước lên chớm tới đỉnh thiêng là bất kể quỷ thần, lõa lồ phơi phới quấn chặt lấy nhau, tan loãng vào nhau từng sợi máu, từng tế bào vi ti, từng hơi thở dồn dập dập dồn. Hạt băng trinh của Trân lưu dấu kỷ niệm hồng tươi đầu đời, lau lách thẩm thấu tận cùng mặt ghế đá xanh chắc ngàn kiếp khó phai… Thế rồi sau đó đôi lứa tạm yên bụng có chốn đi về với nhau làm chuyện vợ chồng đêm từng đêm thoải mái và… miễn phí…”  Giọng văn kìm nén tối đa, mượn chút hóm hỉnh giễu nhại chua chát. Tác giả không phê phán lên án điều gì mà xã hội tối tăm ấy cứ hiện lên mồn một. Miêu tả thân xác, hay chuyện yêu đương cũng rất thực mà rất ý nhị, duyên dáng gợi lên cái đẹp chứ không hề sống sượng, hạ thấp sự thăng hoa thân xác trong tình yêu.

Chỉ thấy nỗi đau. Và bất nhẫn. Xót thương. Cùng cực. Kiếp người.

         Như đã nói ở trên, với kết cấu ‘truyện lồng truyện”, ông đã lồng ghép đan xen nhiều ý nghĩa thông qua một kết cấu đơn vị truyện ký. Rất cô đúc và kiệm lời, nhiều đoạn miêu tả bỏ lửng kết cuộc cho người đọc thả sức liên tưởng, tưởng tượng. Thậm chí linh hoạt đưa ra hai kết thúc mở trong truyện ngắn Chú Dziên thật thú vị chứng tỏ một ngòi bút có nghề. Người đọc có vẻ nghiêng về chọn lựa thứ 2 hơn là kết thúc có hậu đơn điệu, công thức, nhạt nhẽo. Kết cuộc bi đát qua cái chết của chú Dziên cắt cứa vào lòng người đọc cùng nỗi vật vã ân hận không sao cứu vãn được của người chị quá thương em mà không biết nhìn người. Có vẻ không cố tình nhưng cách kể lấp lửng, gợi hơn tả vừa là ưu điểm mà cũng có những hạn chế. Ưu điểm mà đọc truyện Đoàn Văn Khánh tôi luôn thích thú là ngôn ngữ giàu vốn sống, được nén chặt trong vài từ, hay một câu mà mở được cả trường liên tưởng cho người đọc. Nhất là những câu kết truyện. Thông qua ngôn ngữ trần thuật, truyện ngắn Đoàn Văn Khánh đã tái hiện sinh động bức tranh xã hội hôm nay, từ phương diện lời ăn tiếng nói của con người.

         Tuy nhiên, cách tả ‘N trong 1” đôi khi cũng làm cho truyện trở nên ôm đồm dàn trải. Tôi vẫn tiếc Phải hôn Sài Gòn nếu được đi sâu hơn, 7 đoạn được đánh dấu đầu đoạn hoàn toàn có khả năng là ba truyện hay hoàn chỉnh. Chuyện về GS Đào Mộng Nam chỉ mới mở đầu. Tự truyện đầy tình tiết thú vị từ thuở ‘Mẹ cho mang nặng kiếp người” kịch tính ngay từ lúc đi sanh đến khi lớn lên tản cư, ngày đầu tiên đi học  trước mâm lễ vật thành kính hương khói tổ tiên cho con được khai tâm mở trí. Rồi chuyện học trò sắm vai Lục Vân Tiên-Kẻ cướp giành đóng với Kiều Nguyệt Nga… Và ký ức Sài Gòn. Ba đề tài lồng ghép hơi khiên cưỡng trong Phải hôn Sài Gòn nếu được tách ra và đi sâu chi tiết hẳn là ba câu chuyện hấp dẫn.

Song hành con đường thơ và văn năm năm rồi có lẽ…, chất thiền trong văn tuy không rõ nét như thơ, nhưng lại bàng bạc sống động trong từng chi tiết truyện. Từ đề tài, tên đề tài, chi tiết, tình tiết và nhất là các kết thúc truyện đều nhất quán một quan niệm nhân quả trùng trùng duyên khởi. Không phải ngẫu nhiên mà tập truyện ký mở đầu bằng Qua cửa Thần Phù như một mở đầu nhắn nhủ và truyện cuối cùng Kiếp nạn như một sự đền bù có hậu cho kẻ biết tu tâm dưỡng tánh. Yêu thương từng mảnh đời bất hạnh, đổ vỡ, nâng niu những hạt giống thiện lành như đã phân tích trong bài viết này là ý đồ khá xuyên suốt trong toàn tập truyện. Cái đẹp mà tập truyện nhắn gửi giản đơn là một triết lý nhân sinh nhẹ nhàng mà thâm trầm sâu lắng.

         Những câu chuyện Quán Văn, những buồn vui trong con chữ, những nụ hoa đời thân ái giản dị, tự nhiên bắt được trong cuộc sống bộn bề như thế vẫn bình thường nở và toả hương trên trang viết Đoàn Văn Khánh cùng những gắn bó chân tình của mọi thành viên đã đem một sinh khí ấm áp cho QV hơn năm năm qua.

Sông không dài và trời không rộng* còn đời người thì hữu hạn nhỏ bé, mong manh…

Đắng cay ngậm ngùi mới hiểU
        Nhân sinh một cõi vô thường
        (ĐVK, Hăm lăm tết giữa Sài Gòn)

Thị Nghè, 5. 2019

HOÀNG KIM OANH

(Bài đã đăng trên Tập san VHNT Quán Văn số 65, tháng 6 năm 2019, trang 177-189)