William
Faulkner chào đời tại tiểu bang Mississippi vào năm
1897; khi ông được vài tuổi, gia đình dọn tới thị trấn Oxford, nơi có trường
đại học của tiểu
bang Mississippi. Từ hình mẫu của Oxford ấy,
sau này, Faulkner tạo
dựng nên thị trấn Jefferson trong các tác phẩm của mình.
Là tác giả của 126 truyện ngắn, 19 tiểu thuyết ( trong đó có những truyện, những cuốn được xem là hay nhất của ông ), William Faulkner xứng đáng là một trong những gương mặt sáng chói của văn học hiện đại. Ấy vậy mà, tuổi trẻ của ông chẳng có gì vinh quang: không tốt nghiệp nổi trung học, chỉ học đến lớp Mười. Trong tuổi 20, ông là sinh viên sĩ quan của Không lực Canada nhưng chưa thành tài thì cuối năm 1918 đã có lệnh giải ngũ. Faulkner trở về Oxford, ghi tên vào đại học nhưng chỉ học được một năm vì không học nổi. Toàn bộ nền học vấn của một nhà văn lừng lẫy khắp thế giới chỉ có vậy.
Sau đó là thời
gian kiếm sống, ông làm đủ mọi công việc: thợ mộc, thợ sơn, rửa bát nhà hàng,
bán sách, trưởng phòng bưu điện. Ông bắt đầu làm thơ, mà thơ ông cũng nhàm chán
như công việc đưa thư, chẳng làm hài lòng ai. Rồi ông xoay sang trồng trọt,
đánh cá, săn bắn cho đến năm 27 tuổi, muốn đi châu Âu nên ông đến New Orleans, ở
đó ông gặp nhà văn Sherwood Andersen. Nhờ vậy sau khi đi Ý, Pháp và Đức về, ông
xuất bản được cuốn Soldiers’ Pay, năm 1926, nhưng tác phẩm này không thành công
lắm.
Ba năm sau, ông
liên tiếp cho ra đời hai cuốn sách ( Sartoris và The Sound and The Fury ) mở đầu cho thế giới hư cấu của
mình. Cuốn thứ hai là kiệt tác đưa ông vào hàng ngũ những người bất tử của văn
chương nhân loại.
Còn truyện ngắn A Rose for Emily ( được giới thiệu dưới đây ) xuất hiện lần đầu tiên vào ngày 30/4/1929 trên một tạp chí có tầm mức quốc gia ( The Forum ), và nhanh chóng nổi tiếng. Truyện này thường được xem là một trong những truyện hay nhất của ông. Truyện lấy bối cảnh là thị trấn Jefferson, tiểu bang Mississippi, cũng như các truyện khác của William Faulkner, các địa danh này chỉ là hư cấu.
Vinh quang đến
sớm với William Faulkner: ông đoạt giải Nobel Văn học năm 1949, và hai giải Pulitzer
vào các năm 1955 và 1963.
Năm 1951, Tổng thống Pháp Vincent Auriol quyết định trao tặng Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh. ( Légion d’ honneur ).
Khi cô Emily Grierson chết, cả tỉnh chúng tôi đi dự đám tang cô. Đàn ông đi vì lòng quý mến một tượng đài đã sụp đổ, còn đàn bà hầu hết chỉ vì hiếu kỳ muốn nhìn thấy bên trong nhà cô, nơi ít nhất mười năm rồi không ai đặt chân đến, trừ ông lão bộc, vừa là đầu bếp vừa là người làm vườn. Đó là một toà nhà gỗ, to lớn, vuông vắn, trước đã từng được sơn trắng, có một đường mái cong với những ngọn tháp nhọn hoắt, với những bao lơn cuốn vòng theo đúng lối kiến trúc thanh kỳ của những năm 70, toạ lạc tại một khu phố sang trọng nhất trước kia. Nhưng rồi, những tiệm sửa xe, những nhà máy cán bông lấn dần và xoá mờ ngay cả những danh hiệu cổ kính của khu phố. Chỉ còn nhà của cô Emily vẫn ngạo nghễ vươn lên với dáng suy tàn mà đỏng đảnh giữa đám xe chở bông và những trạm sơn băng, đúng là một cảnh chướng mắt giữa những cảnh chướng mắt khác. Và giờ đây, cô Emily lại nối gót theo đại diện của hai danh hiệu cổ kính vào nằm trong nghĩa trang, dưới bóng tùng vi vu, giữa những dãy mồ vô danh của các binh lính Hợp chúng Miền Bắc và Liên quân miền Nam đã gục ngã trên chiến trường Jefferson.
Lúc sinh thời, cô Emily là một truyền thống,
một nghĩa vụ, một lo âu, một thứ đảm phụ thế truyền đè nặng lên cả tỉnh, kể từ
năm 1894 khi đại tá tỉnh trưởng Sartoris, người đã ban hành điều luật cấm phụ nữ
da đen ra đường nếu không quấn tạp dề, đã miễn hẳn các khoản thuế cho cô, điều
này có hiệu lực vĩnh viễn từ lúc cha cô qua đời. Không phải là cô Emily chịu
mang tiếng là nhận cứu trợ. Đại tá
Sartoris đã bịa ra một
câu chuyện loanh quanh là thân phụ cô Emily trước đây đã cho tỉnh vay tiền, và
như thế, theo tính sòng phẳng hợp lý, tỉnh mới tìm cách trả lại. Chỉ có người
thuộc cùng thế hệ, và với tầm kiến thức như đại tá Sartoris mới có thể bịa ra
câu chuyện như thế, mà cũng chỉ có phụ nữ mới tin nó.
Khi thế hệ sau, với tư tưởng mới mẻ hơn,
lên làm tỉnh trưởng, làm hội viên hàng tỉnh, thì việc thu xếp như vậy đã gây ra
ít nhiều điều bất bình. Vào ngày đầu năm, họ gởi cho cô giấy báo thuế. Đến
tháng hai rồi không thấy hồi âm. Họ bèn gởi tới cô một công văn yêu cầu cô, lúc
nào thuận tiện, hãy tới văn phòng ông quận trưởng.
Tuần sau, đích thân ông quận trưởng viết
cho cô, đề nghị sẽ đến nhà cô hoặc đưa xe đến đón cô. Ông nhận được thư trả lời
viết trên một khổ giấy nhỏ cổ lỗ, nét chữ nhỏ xíu, nét mực mờ mờ, đáp rằng cô
chẳng bao giờ ra khỏi nhà. Giấy báo thuế được gởi trả lại, không một lời giải
thích.
Họ triệu tập một phiên họp hội đồng hàng tỉnh
bất thường. Một toán đại diện được cử đến nhà cô, họ gõ cửa, cánh cửa, kể từ
lúc cô thôi dạy vẽ hình trên đồ sứ, đã tám hay mười năm nay, chưa ai bước qua.
Người lão bộc da đen ra mở cửa, họ vào một hành lang hơi tối, có một cầu thang
hun hút đưa lên một chỗ tối tăm hơn. Thoảng có mùi bụi và mùi mốc, một thứ mùi
bưng bít ẩm ướt. Đến lúc họ ngồi xuống thì đám bụi mỏng uể oải bốc lên quanh
đùi họ. Trên một cái giá vẽ mạ véc ni đã xạm màu đặt trước lò sưởi có bức chân
dung thân phụ cô Emily vẽ bằng bút chì than.
Họ đứng dậy khi cô Emily bước vào, người cô thấp và mập, cô bận đồ đen, đeo một dây chuyền mảnh bằng vàng, xệ tới bụng, buông lẫn vào trong thắt lưng. Cô chống một cây gậy gỗ mun có tay cầm bịt vàng đã xạm màu. Cốt cách của cô mảnh mai, vì vậy vẻ mập mạp của cô chỉ là béo bệu mà thôi. Trông cô trương phù lên như một xác chết lâu ngày ngâm trong vũng nước tù. Cặp mắt cô nhìn lẫn dưới những nếp nhăn bệu của khuôn mặt trông tựa hai mẩu than nhấn chìm trên miếng bánh bột phồng, cặp mắt đưa đẩy lần lượt nhìn vào từng người khách, trong khi họ bày tỏ lý do đến nhà cô. Cô chẳng buồn mời họ ngồi . Cô cứ đứng sững nơi ngưỡng cửa và im lặng nghe khi một ông trong bọn họ dứt lời. Lúc đó họ nghe tiếng tích tắc của đồng hồ khuất kín nơi đầu dây chuyền vàng của cô. Cô cất giọng khô khan lạnh lùng: “ Tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở Jefferson cả. Đại tá Sartoris đã giải thích với tôi như vậy. Có thể một người trong các ông tới văn khố toà thị chính mà tự tìm hiểu. Nhưng chúng tôi đã làm việc đó rồi. Chúng tôi là nhân viên toà thị chính thưa cô. Cô không nhận được giấy báo thuế do ông quận trưởng ký sao? Tôi có nhận được giấy. Cô Emily nói. Có lẽ ông ta tự phong là quận trưởng, tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở Jefferson cả. Nhưng trong sổ sách không chỗ nào ghi như vậy cả, cô hiểu cho, chúng tôi phải… Các ông nên đi mà gặp đại tá Sartoris. Nhưng cô Emily… Hãy đi gặp đại tá Sartoris. ( Đại tá Sartoris đã qua đời gần 10 năm nay rồi. ) Tôi chẳng có thuế má gì phải đóng ở đây cả… Chú Tobe ! ( người da đen xuất hiện ). Dẫn đường cho các ông ấy ra.
2.
Như vậy, cô đã chế ngự được họ hoàn toàn,
đúng như cô đã thấy bậc cha chú của họ ba mươi năm về trước đối với cái mùi hôi
thối từ nhà cô. Vụ này xảy ra hai năm sau khi thân phụ cô qua đời, ít lâu sau
khi người tình của cô bỏ đi nơi khác, người mà chúng tôi ai cũng nghĩ là sẽ cưới
cô. Sau khi cha mất, ít khi cô ra ngoài, và khi người tình bỏ cô mà đi, khó ai
nhìn thấy mặt cô. Có một vài bà bạo gan liều đến thăm nhưng cô không tiếp ai, dấu
hiệu sinh hoạt duy nhất nơi cô ở là ông lão da đen - thuở đó cô còn trẻ - xách
cái giỏ đi chợ cứ đi đi về về. “ Bất kỳ một người đàn ông nào trông nom bếp núc
đều như thế cả “. Mấy người phụ nữ bàn tán với nhau như vậy, nên chẳng ai ngạc
nhiên khi có mùi hôi thối bốc ra. Thế là có một mối liên kết mới giữa đám người
đông đảo, thô kệch với dòng họ Grierson cao cả và hiển hách. Một bà láng giềng
của cô tìm đến phàn nàn với ông tỉnh trưởng lúc này là vị thẩm phán 80 tuổi Stevens.
Bà bảo tôi làm thế nào bây giờ ? Ông tỉnh trưởng hỏi, Khó gì, ông chỉ việc ra lệnh
bắt phải chặn đứng cái đó lại. Không còn biện pháp nữa sao ? Tôi chắc là không
cần như thế. Ông thẩm phán nói: Hẳn đây chỉ là con rắn hay con chuột mà anh
chàng da đen đập chết trong sân nhà mà thôi. Để tôi bảo hắn. Hôm sau lại hai người
khác đến kêu ca nữa. Một người đàn ông tới rụt rè đưa ra lời khẩn cầu. Đã đến
lúc bắt buộc phải làm một cái gì, ông thẩm phán ạ. Bất đắc dĩ lắm tôi mới tính
đến việc quấy rầy cô Emily nhưng quả thật đã đến lúc chúng ta phải làm gì
đó. Tối hôm đó, hội đồng thành phố họp,
ba người đứng tuổi và một thanh niên, đại diện của thế hệ đang lên. Giản dị lắm,
chàng thanh niên nói, bảo cô phải tẩy uế nhà cửa. Hãy cho cô ít thời gian và nếu
cô không thì … Trời đất, thưa ông bạn, lời ông thẩm phán Stevens, liệu ông có
thể sẵn sàng nói thẳng vào mặt một phụ nữ rằng người bà hôi hám sao. Thế rồi
đêm hôm sau, vào lúc quá nửa đêm, bốn người đàn ông băng qua sân cỏ nhà cô ta,
lẻn vào nhà cô như những tên trộm, họ đánh hơi được cái hầm nhà xây gạch, theo
cửa thông hơi gió trên hầm, đồng thời một người thọc tay vào bao tải đeo trên
lưng rồi đều đặn vung tay hệt như người gieo mạ. Họ đẩy cửa hầm, đi vào trong,
rắc vôi bột, rắc cả những nhà phụ bên ngoài. Khi họ trở ra, cũng lại băng qua
sân cỏ, lẻn vào bóng những cây dạ hợp trồng dọc theo hè phố. Một hai tuần sau,
mùi hôi không còn.
Chừng đó mọi người mới thấy thương hại cô. Dân trong tỉnh lại nhớ đến bà cụ Wyatt, bà cô của cô ta, sau cùng đã thực sự phát điên vì nhận ra là dòng họ Grierson đã tự đề cao quá lố. Không một chàng trai tráng nào khả dĩ xứng hợp với cô Emily. Chúng tôi thường hình dung ra nhân vật trong dòng họ cô như những hình trên một bức ảnh, phía trong cùng là cô Emily mặc đồ trắng, dáng mảnh mai, phía trước là cha cô, xây lưng lại phía cô, hai chân dang ra, tay lăm lăm chiếc roi ngựa, cả hai nổi bật trong khung cửa mặt tiền. Vì vậy khi cô ba mươi tuổi xuân mà vẫn chưa chồng, chúng tôi thực ra có sung sướng gì, nhưng cũng cảm thấy được hả giận. Ngay khi có chứng điên trong gia đình, cô cũng chẳng bỏ lơ tất cả những cơ hội may mắn nếu quả thật những cơ hội đó có đến thật khi thân phụ cô qua đời, người ta đồn rằng tất cả của cải để lại chỉ còn căn nhà đó, đứng về một phương diện nào đó, có vẻ bằng lòng. Bây giờ mọi người có thể rủ lòng thương hại cuộc đời cô được rồi. Bị bỏ lại trong cô độc và nghèo nàn, lúc ấy cô mới thấm thía nhân tình, lúc ấy cô mới hiểu thế nào là niềm vui hoặc nỗi buồn của một đồng xu kiếm được hoặc mất đi. Sau khi thân phụ cô mất, cô mất tất cả, các bà sẵn sàng qua nhà cô để phân ưu và giúp đỡ theo thông lệ. Cô Emily tiếp họ ở cửa, cô ăn bận như ngày thường, tuyệt không có một nét buồn rầu nào thoáng hiện. Cô bảo các bà là thân phụ cô chết. Cô nói như vậy ba ngày liên tiếp với các mục sư đến viếng, với các y sĩ đến thuyết phục cô để lo liệu cho xác chết. Mãi đến lúc họ định dựa vào pháp luật để cưỡng bách thì cô mới nhượng bộ và họ vội vàng chôn cất cha cô. Chúng tôi không cho là cô điên. Chúng tôi nghĩ là có chăng thì nào làm khác được, chúng tôi nhớ đến những trai trẻ mà thân phụ đã xua đuổi đi, và chúng tôi hiểu giờ đây cô thấy chẳng còn gì nên phải bám víu lấy cái đã tước đoạt mọi thứ nơi cô như mọi người vẫn thường làm thế.
3.
Cô đau khá lâu. Khi chúng tôi gặp lại cô thì
tóc cô cắt ngắn khiến cô trông như con gái, phảng phất giống như hình những
thiên thần vẽ trên cửa kính màu ở nhà thờ, vừa bi thảm, vừa trong trắng. Thành
phố vừa ký những hợp đồng lát đá các lề đường, và mùa hè liền sau năm thân phụ
cô qua đời thì người ta khởi công. Hãng thầu tới đem theo bọn da đen ( negros,
nguyên tác ghi n…s ), với những con la và máy móc. Có gã đốc công tên là Homer
Barron, dân Bắc Mỹ, vạm vỡ da ngăm, tính cương quyết, tiếng nói oang oang, cặp
mắt sáng hơn màu da mặt. Lũ trẻ con đi theo nghe gã nhiếc mắng bọn da đen và
nghe bọn này cất tiếng hát theo nhịp cuốc. Chẳng bao lâu gã quen mặt mọi người
trong thành phố. Cứ mỗi khi nghe tiếng cười ở đâu đó là y như có gã Homer
Barron ở đó rồi. Thời gian này, chúng tôi thường thấy gã và cô Emily mỗi buổi
chiều chủ nhật, ngồi trên chiếc xe ngựa thuê không mui hai chỗ, bánh màu vàng
đóng cặp ngựa hồng.
Ban đầu chúng tôi lấy làm phấn khích khi thấy
cô Emily đã có niềm vui, bởi các bà đều bàn tán: Tất nhiên con gái dòng họ Grierson
không thể cặp bồ với một anh chàng miền Bắc, một kẻ làm công. Nhưng cũng có những
người lớn tuổi hơn bàn tán rằng ngay cả trong nỗi sầu của cô gái quyền quý cũng
không được quên câu phú quý sinh lễ nghĩa. Họ chỉ nói: Tội nghiệp cho cô Emily.
Thân quyến cô sẽ phải đến với cô. Cô có một số bà con ở Alabama, nhưng nhiều
năm trước, thân phụ cô đã gây xích mích
với họ về việc thừa kế tài sản của bà Wyatt, một bà cụ điên, vì vậy mà hai gia
đình cắt đứt liên lạc. Thậm chí có đám tang cũng không ai đến phúng điếu. Rồi
chẳng bao lâu, mọi người lại nói: Tội nghiệp cô Emily. Rồi họ thì thào hỏi
nhau: Các ông bà có nghĩ vậy không ? Kẻ tán vào thì nói: Dĩ nhiên là thế. Còn
gì bằng. Những lời bàn tán đã thoát ra bàn tay che miệng, phía sau những màn lụa
và sa tanh, bao trong những tấm màn che nắng, được cuộn lên vào những chiều chủ
nhật khi vừa có tiếng xe ngựa lanh lẹ lướt qua. Tội nghiệp cho Emily.. Cô vẫn
ngẩng cao đầu - ngay cả khi chúng tôi cho rằng cô đã sụp đổ. Chừng chư hơn bao
giờ hết nếu cô đòi hỏi mọi người phải công nhận cái phẩm chất bất khả xâm phạm
của cô. Giống như khi cô đi mua thuốc giết chuột, chất thạch tín. Việc đó xảy
ra hơn một năm sau lời nói thương hại: Tội nghiệp cô Emily của thiên hạ, vào thời
gian hai người chị họ đến chơi nhà cô. Tôi muốn mua độc dược, cô nói với người
bán thuốc. Lúc này cô ngoài ba mươi, vốn là người phụ nữ mảnh khảnh, hơi ốm hơn
thường ngày, mắt đen lạnh lùng trong khuôn mặt với gò má nhô cao. Cô nói lại.
Tôi muốn mua độc dược. Vâng được, cô muốn mua loại nào? Loại tốt nhất tiệm ông
có. Tôi không quan tâm loại nào. Người bán thuốc kể tên vài loại rồi nói. Chúng
có thể giết chết cả con voi, nhưng loại cô muốn dùng là thạch tín. Cô Emily hỏi:
Nó tốt không? Thạch tín sao ? Vâng, thưa cô, nhưng thứ cô muốn là… Thạch tín !
Người bán thuốc nhìn cô. Cô chằm chằm nhìn lại ông ta, nhìn thẳng vào mặt, ông ta
đứng thẳng người, mặt như lá cờ căng gió. Dĩ nhiên là có. Nhưng nếu đó là thứ
cô muốn thì theo luật, xin cô vui lòng cho biết cô sẽ dùng nó vào việc gì.
Cô Emily chỉ nhìn thẳng vào mặt ông ta, đầu cô ngả ra phía sau, mắt dán vào ông ta đến nỗi ông phải quay đi và vội lấy thạch tín gói lại. Chú bé giao hàng da đen mang gói thuốc đến cho cô, người bán thuốc không ra nữa. Khi về đến nhà, cô mở gói thì thấy trên cái hộp hình sọ người và hai xương ống bắt chéo, hàng chữ: Dùng cho chuột.
4.
Rồi ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều bảo:
Cô ta sẽ tự sát, và chúng tôi tin rằng như thế có lẽ là tốt nhất. Lần đầu tiên
khi thấy cô đi với Homer Barron, chúng tôi đã nói: Cô sẽ lấy gã. Rồi lại còn
bàn: Tất nhiên cô sẽ thuyết phục được gã vì chính Homer cũng tự
nhận rằng mình thích tụ họp với cánh đàn ông, ai cũng biết gã từng đi uống với
những hội viên trẻ của câu lạc bộ Elks, rằng gã không phải hạng người sinh ra để
lấy vợ. Sau nữa, chúng tôi lại nói: Tội nghiệp cho Emily phía sau mành cửa khi
họ đi qua vào chiều chủ nhật trên chiếc xe mui trần bóng loáng. Cô Emily ngẩng
cao đầu, còn Homer Barron mũ lệch bên
trái, răng cắn chặt điếu xì gà, dây cương và roi ngựa trong cái bao tay vàng.
Rồi, có vài bà nghĩ rằng đó là điều sỉ nhục
cho cả tỉnh, làm gương xấu cho giới trẻ. Bọn đàn ông thì không muốn dính dáng đến,
nhưng sau này các bà ép mục sư giáo phái Bap tist - gia đình cô Emily theo giáo
phái Épiscopal - đến tiếp xúc với cô. Mục sư không tiết lộ những gì xảy ra
trong cuộc tiếp tục đó, nhưng từ chối không đến thăm lần nữa. Ngày chủ nhật sau
đó, họ lại đánh xe đi với nhau ngoài phố, và hôm sau thì bà vợ ông mục sư viết
thư cho thân quyến cô ta ở Alabama. Thế là trong nhà cô lại có thân quyến đến ở
và chúng tôi ngồi chờ xem diễn biến. Mới đầu chẳng thấy gì hết. Rồi sau đó
chúng tôi tin chắc là họ sẽ lấy nhau. Kế đó chúng tôi được tin là cô đã tới tiệm
kim hoàn đặt một bộ trang sức cho nam giới bằng bạc có khắc hai chữ đầu HB ở mỗi
món đồ. Hai ngày sau, chúng tôi được tin cô sắm một bộ quần áo đàn ông, kể cả
áo ngủ, và chúng tôi nói: Họ lấy nhau thật rồi. Chúng tôi mãn nguyện lắm. Là vì
hai cô chị họ lại còn điệu bộ Grierson hơn cả cô Emily nữa. Thế nên chúng tôi
không ngạc nhiên khi thấy Homer Barron - lề đường lúc này đã lát xong - bỏ đi.
Chúng tôi hơi thất vọng là chẳng có cuộc vui chung nào, nhưng chúng tôi còn tin
rằng gã ra đi để sửa soạn đón cô Emily. Vào thời gian ấy quả là chúng tôi đã
hùa nhau đứng về phe cô Emily, giúp cô mưu kế để đẩy cho được hai cô chị họ
kia. Có điều khá chắc chắn là trong vòng một tuần lễ, cả hai người đều ra đi.
Và đúng như chúng tôi trông chờ, chưa đầy ba ngày Homer Barron trở lại thành phố,
một người láng giềng của cô Emily đã
nhìn thấy anh hầu da đen để gã vào lối cửa bếp vào một hôm lúc trời chạng vạng.
Và đó là lần chót chúng tôi thấy Homer Barron. Rồi cả
cô Emily cũng không thấy mặt một thời gian. Vẫn chỉ thấy anh da đen đi đi về về
với cái giỏ đi chợ, còn cửa chính thì đóng im ỉm. Thỉnh thoảng, chúng tôi nhìn
thấy cô ở cửa sổ một lúc, như tối hôm nào mấy người tới rắc vôi bột xung quanh
nhà cô, nhưng đến sáu tháng trời không thấy cô xuất hiện ngoài thành phố. Lúc
đó chúng tôi mới ngã ngửa người ra là cũng phải dự liệu cả điều này nữa, chừng
như tính nết của thân phụ cô đã quá nhiều lần mâu thuẫn với nếp sống phụ nữ của
cô, nó độc địa, dữ dằn quá đến không thể tiêu tan.
Khi chúng tôi gặp được cô ta, cô đã mập ra,
tóc cô xám. Vào năm sau, mỗi năm nó lại xám hơn cho đến khi nó trở thành tóc muối
tiêu, màu xám sắt thì giữ không đổi nữa, tựa như tóc một người đàn ông năng động
vậy.
Từ thời gian đó, cửa nhà cô vẫn đóng chặt,
trừ một khoảng thời gian khoảng sáu, bảy năm, lúc cô trạc 40, cô dạy vẽ hình
trên đồ sứ. Cô thu dọn một phòng ở tầng một làm xưởng vẽ, nơi đây những con
gái, cháu gái của những người đồng thời với đại tá Sartoris được gởi tới học đều
đặn, cần mẫn, như đi nhà thờ vào ngày chủ nhật, mang theo đồng hai mươi xu để
góp trong dĩa. Trong lúc này, thuế má của cô được xả hết.
Rồi khi thế hệ trẻ trở thành trụ cột và
linh hồn của thành phố, và những học trò lớp vẽ của cô lớn lên, tản mác đi các
nơi, họ cũng chẳng gởi con cái đến học cô, mang theo những hộp màu, những cọ
sơn buồn nản và những hình vẽ cắt trong các tạp chí phụ nữ. Cửa trên nhà cô
đóng chặt sau lưng đứa học trò sau cùng, rồi cứ thế cứ đóng mãi. Khi thành phố
được phát thư miễn phí, cô Emily không cho họ treo bảng số nhà, cũng không cho
họ gắn hộp thư vào cửa, cô nhất thiết không chịu nghe một lời phân giải nào.
Ngày, tháng, năm trôi qua, chúng tôi thấy
anh người làm da đen tóc thêm xạm màu, lưng thêm còng, vẫn đi đi về về với cái
giỏ đi chợ. Cứ mỗi tháng chạp tới, chúng tôi lại gởi giấy báo thuế tới, rồi một
tuần sau lại thấy bưu điện phát hoàn: không người nhận. Thỉnh thoảng chúng tôi
trông thấy cô xuất hiện sau một khung cửa ở tầng trên, như một pho tượng. Cứ
như thế, cô sống trải từ thế hệ này sang thế hệ khác, cao quý, không lẩn trốn,
bất khả xâm phạm, trầm tĩnh, ngang bướng.
Rồi cô chết. Cô lâm bệnh trong nhà đầy bụi
bặm, chỉ có người lão bộ da đen lụm cụm
hầu hạ. Chúng tôi cũng không biết là cô đau, đã từ lâu chúng tôi cũng từ bỏ việc
dò hỏi người lão bộc về cô.
Lão chẳng nói với ai lời nào, chắc cả với cô cũng vậy, tiếng lão khàn khàn, bởi từ lâu không dùng. Cô chết ở trong một trong những căn phòng dưới nhà, trên cái giường bằng gỗ hồ đào nặng trịch, có tấm màn che, mái đầu tóc xám đặt lên chiếc gối màu vàng mốc meo vì lâu ngày thiếu ánh mặt trời.
5.
Lão da đen ra cửa tiếp đón người đi đầu
trong đám các bà rồi dẫn tất cả vào nhà, giọng nói các bà tắt nghẹn, thì thầm,
với những cái nhìn vội vàng, lén lút, rồi lặng dần đi. Lão đi thẳng qua căn
nhà, ra lối cửa hậu rồi không thấy đâu nữa.
Hai người chị họ cũng vừa đến viếng. Họ
cho làm đám tang ngay hôm sau, và tất cả tỉnh đến viếng. Cô Emily nằm trong đám
hoa mới mua, chân dung thân phụ cô vẽ bằng bút chì than như trầm tư trên cỗ áo
quan, các bà thì thầm ma quái, trên sân cỏ, trong bị luỵ, những cụ già - một
vài cụ mặc binh phục Liên quân miền Nam, chải chuốt tán gẫu về cô ta, coi cô
như người cùng thế hệ với mình, tin rằng mình đã có lần khiêu vũ với cô, và có
lẽ đã tán tỉnh cô nữa, các cụ đã lẫn thời gian với cấp số toán học của nó, như
những người già thường lẫn, với họ, dĩ vãng không phải là con đường suy giảm dần,
mà là một cánh đồng cỏ mênh mông, mùa đông chẳng bao giờ chậm tới, ngăn cách họ
bằng cái cổ chai nhỏ hẹp của mười năm vừa qua.
Chúng tôi biết trên lầu có một căn phòng
dán kín mà đã 40 năm qua không ai biết tới, muốn vào phải phá cửa. Người ta đợi
cô Emily mồ yên mả đẹp mới phá cửa.
Sức phá cửa mạnh dường như làm căn phòng
tung đầy bụi bặm. Có vẻ như một tấm màn đen phủ quan tài mỏng mùi hăng trùm kín
khắp căn phòng được trang trí cho cô dâu
chú rể, trên những tấm màn buông có riềm màu hồng bạc thếch, trên những chụp
đèn màu hồng, trên bàn phấn, trên loạt đồ pha lê thanh nhã, trên bộ đồ trang sức
của nam giới mà mặt trong bằng bạc đã xám xịt, xám đến độ mấy chữ bên trên viết
tắt đã ám đen. Giữa những thứ đó, có một chiếc cổ cồn và chiếc cà vạt chừng như
mới được tháo ra, khi nhấc lên còn để lại trên mặt bàn một vành trăng lưỡi liềm
mờ nhạt trên nền bụi. Trên ghế còn vắt bộ quần áo, xếp gấp cẩn thận, dưới ghế
là đôi giày câm nín và những đôi tất chơ vơ.
Chính gã đàn ông đã nằm trên giường.
Chúng tôi đứng yên một lúc lâu, cúi nhìn cái miệng rộng hoắc sâu thẳm và không còn da thịt. Người ta thấy hình như thân gã có một lúc nằm với dáng điệu ôm ấp, nhưng rồi giấc ngủ dài, dài vượt tình yêu, giấc ngủ dài đã chinh phục sự đỏng đảnh của tình yêu, đã lừa gạt được gã. Di thể của gã đã rửa nát, dưới những gì còn sót lại của chiếc áo ngủ, không thể gỡ khỏi nơi mặt người gã nằm, và trên xác gã cũng như trên chiếc gối bên cạnh gã, phủ một lớp bụi dẻo dai và bền bỉ. Lúc ấy chúng tôi để ý nhận thấy trên mặt gối thứ hai còn in hằn viết lõm đầu người. Một người trong bọn chúng tôi nhặt lên được một cái gì trên gối, và khi chúng tôi cúi xuống, lớp bụi gờn gợn vô hình khô khan kia xông thẳng lên mũi, chúng tôi nhìn ra thì đó là một sợi tóc dài, một sợi tóc màu xám sắt.
THÂN TRỌNG SƠN
dịch và giới thiệu
(tháng 8/2023).
Nguồn:
A Rose for
Emily.
https://americanliterature.com/author/william-faulkner/short-story/a-rose-for-emily