Thursday, December 28, 2017

298. TRẦN HOÀI THƯ Người lính miền Nam viết văn

Ảnh: Google image


tặng Phạm Văn Nhàn

Người lính miền Nam viết văn.  Chẳng ai bắt hắn phải vừa cầm súng vừa cầm viết. Hắn làm một cách tự nguyện. Không ai có thể đụng hắn.Không ai có quyền bắt hắn phải nạp bản thảo để đọc tư tưởng của hắn.

Hắn được tự do.
Tự do hoàn toàn.
Ngay cả tự do chết.
Trên thi thể của hắn không có gì cả, trừ bản thảo, xấp giấy trong túi áo trận.
Có thể là bài thơ tình.
Hay cũng có thể là bài thơ về một nỗi ước mơ,  mùa chiêm vàng bát ngát…

Người lính miền Nam viết văn. Mấy tháng đổ mồ hôi trên thao trường, hắn được thảy ra mặt trận. Quân dội cấp hắn khẩu súng, lựu đạn, dao găm, địa bàn, bản đồ, giao hắn mười mấy người lính để hắn chỉ huy. Nhưng hắn tự giao cho hắn cây viết và xấp giấy.
Hắn tiếp tục viết.
Hắn viết bằng chất liệu từ cuộc đời của hắn. Hắn sống và viết.

Nhiệm vụ của hắn là mỗi hai đêm dẫn con cái đi nằm ở ngoài vòng đai  căn cứ hay được lệnh thực hiện một cuộc làm ăn đêm. Hắn phải lựa chọn địa điểm kích, địa điểm đóng quân cho thích hợp. Ví dụ một nghĩa địa làng, hay một mô đất mả mồ nổi lên giữa đồng trống. Những bia mộ là những tấm khiên che chở rất hữu hiệu khi đơn vị bị tấn công. NHưng để đổi lại là cảm giác sợ hãi lo âu vì âm khí từ mả mồ bốc lên. Hắn từng nghe những bệnh nan y như phong cùi là hậu quả của âm khí độc địa này. Tuy nhiên, giữa hai chọn lựa, hắn chọn sư an toàn. Có nghĩa là  gò huyệt, gò mả….

Hắn đã chịu đựng suốt đêm. Phần lo lính canh ngủ gục, phần lo địch về đặt pháo, phần sợ chiếc máy bay C123 rà rà trên bầu trời, bắn lầm. Có khi trời mưa như thác. Có đêm trời rất trong, sao đầy ngập trên bầu trời. Có khi hắn nghe tiếng nhạc nhảy đầm Lính mà em vọng về từ Bô Tư Lệnh.Hắn chửi thề đù má. Hắn lắng nghe những mẫu âm thoại từ máy PRC 25, mà người lính truyền tin điều chỉnh rất nhỏ. Hắn muốn ngủ. Hắn thèm sự vô lo của những người lính thuộc quyền. Máu thi văn của hắn lại  chảy trong người. Hắn ngồi dậy, trùm hai ba lớp mền, poncho, và bật đèn pin quân đội. Hắn làm bài thơ:

Đêm nằm kích ở Luật Chánh II. 

Dù ngại một lần rồi sẽ ngã
Ta dắt đàn con nhỏ chắt chiu
Về thăm gò mả thăm kênh lạch
Thăm những oan hồn đang hẩm hiu

Ta chẳng buồn đêm nay thiếu gái
Ta chẳng sầu bởi quá bơ vơ
Ta chẳng thèm thêm ly rượu đế
Ta chẳng màng đọc một bài thơ

Dù cũng nhớ đêm nay sinh nhật
Buồn như điên gữa cõi tha ma
Buồn như vạn vì sao cô độc
Buồn xuôi tay nước mắt nhạt nhòa

Ta có áo mưa làm con vợ nhỏ
Có gò cao làm gối, gối đầu
Ta có oanhồn làm bạn hữu
Thương dùm cho ta khỏi cùi phun

Ta có ông bà muôn năm cũ
Đội đất vỗ về giấc ngủ ta
Ông bà xin thương một thằng lính sữa
Trọn đời chỉ biết có trăng hoa

Ôi những đêm dài như địa ngục
Mà hồn ta là bãi tha ma…

Bài thơ sau đó gởi cho Khởi Hành, tờ báo mà hắn tin sẽ đăng nó trọn vẹn. Hắn thừa  biết nếu bài này mà gởi cho Bách Khoa hay Văn, thì khó lòng qua mắt được kiểm duyệt. Lý do, họ sẽ buộc tội hắn là hạ thấp quân lực miền Nam. Người lính miền Nam phải oai hùng, đâu có buồn xuôi tay nước mắt nhạt nhòa như vậy. Người lính miền Nam phải đứng đầu gió và lời thơ phải là lời thép.  

Khởi Hành đăng, rồi sau đó, Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị chọn bài thơ để đăng vào trong cuốn thơ Đầu Gió, tuyển tập những bài thơ thép, để phát không cho quân nhân. In đến 5000 cuốn.Tổng cục chọn, đáng lẽ hãnh diện mới phải, nhưng tại sao hắn lại xấu hổ.  Bài thơ của hắn uỷ mị yếu đuối như vậy mà lại được xem vào loại thơ thép thì hết chỗ nói.

Cũng như bài thơ Thảo Khấu  của Nguyễn Bác Sơn với mấy câu đọc lên thấy lợm miệng::

Vì sao ta đến đây hò hét
Học trò bẻ bút tập mang gươm
Tập uống máu người thay uống nước
Múa may theo lịch sử điên cuồng.

cũng được báo  KH đăng, không bị kiểm duyệt gây khó dễ. Và sau đó cũng được chọn là bài thơ thép trong cuốn Đầu Gió của Tổng Cục Chiến tranh chính trị!

Hắn cố tự an ủii, đây chính là đặc trưng của một nền văn học miền Nam, tự do, rất tư do  và tờ báo Khởi Hành và Tổng Cục CTCT  đã thật sự biết tôn trọng sự tự do ấy của người lính viết văn làm thơ.. Nhưng hắn vẫn thấy lòng bất an với những từ to tướng trên bìa : “ thép” hay “đầu gió” ?

Người lính miền Nam  viết văn. Hắn có hai con người. Một là một kẻ phải “thi hành trước khiếu nại sau”, có nghĩa là phải chấp hành tuyệt đối kỷ luật, bởi vì kỷ luật là sức mạnh quân đội. Phải thi hành đi  đầu dù trung đội không phải trực hôm đó, để lính của hắn phải bất mãn. Phải tiến lên đồi, chiếm mục tiêu, dù hắn biết cái chết là 100% khi mục tiêu chất chồng hang đá, làm sao mà biết địch ẩn núp ở hang nào?

Hắn bất mãn, không thể khiếu nại, không thể không đau lòng trước những đau đớn của vợ con thân nhân của những người tử trận vì cái lệnh ngu xuẩn. Hắn chỉ biết viết. Hắn viết lên sự thật. Tại sao lại cấm hắn viết ?

Người lính miền Nam  viết văn. Hắn viết, khi mặt đất rung chuyển bởi những trận bom rải thảm từ xa. Hắn viết, chữ nguệch ngoạc vì một ngón tay của hắn bị đứt gân do miểng lựu đạn cắt. Hắn viết, cuống cuồng, hối hả, viết bằng hơi thở chứ không bằng lý trí.  Hắn viết khi thấy những đứa con gái làm đĩ Mỹ, căng những lều tạm bên đường quốc lộ, hay cái tháp chàm trên đồi tháp Bánh Ích được làm nơi đặt đài ra đa của quân đội đồng minh, thỉnh thoảng hắn  thấy lính Mỹ mang gái lên đồi. Hắn tri ân quân đội đồng minh, nhưng hắn không chấp nhận sự làm ô uế kia. Và hắn viết. Hắn dám dựng một nhân vật ban đêm mò lên chỗ xe đậu, tháo bù lon bánh xe. Kết quả là cả xe chở gái điếm kia bị rơi xuống  vực.  Báo Bách KHoa đăng bài hắn bị tịch thu.  Hắn không màng. Cứ viết. Chuyện kiểm duyệt hay tịch thu là chuyện của Sở Kiểm duyệt. Phải để cho các ngài có việc làm chứ. Nếu không các ngài sẽ bị tống vào quân trường rồi cầm súng cũng như hắn, thì tội nghiệp.

Người lính miền Nam  viết văn. Ở trong quân đội hắn là một người lính thấp hèn nhưng ở văn chương hắn là ông vua. Hắn gian khổ quá rồi, thì hãy cho hắn được lên ngôi hoàng đế chứ. 

Trần Hoài Thư