Saturday, March 3, 2018

454. PHẠM VĂN NHÀN Tình bạn với Lê Văn Trung

Trong ảnh: nhà thơ Lê Văn Trung


Vào trung tuần tháng 7 năm 2017. anh bạn Trần Hoài Thư có ra một thi tập: Vịn Vào Lục Bát. Trong thi tập này, phần sau anh Trần Hoài Thư dành riêng viết về những người bạn trong căn nhà ở Khu Sáu Qui Nhơn với những dòng lục bát, cùng với những người bạn văn nghệ của anh một thời khốn khó. Trong những bài lục bát ấy, có Lê Văn Trung...với những câu thơ lục bát rất chân tình. Dù đã trải qua gần 50 năm nhưng, như một kỷ niệm khó quên, mỗi lần nhắc đến. Căn nhà thuê, chật chội,  không ngăn nắp nhưng đầy ắp tình bạn. Đoạn lục bát trong thi tập mà Trần Hoài Thư viết về Lê Văn Trung như sau: Em nào hiểu giữa cơn say/ Ta chiêm bao thấy một ngày rất xa/ Khỏi cần khắc đá lời thơ/ câu thơ Khu Sáu cũng là thiên thu. Hai câu đầu trong bài lục bát này Lê văn Trung viết trên vách tường trong căn nhà tôi thuê bằng những cục than hầm từ ngôi quán của ông Ba chủ nhà.

Nói đến Qui Nhơn trong thời chiến (khoảng năm 1968) tôi với Trần Hoài Thư là hai người lính. Anh em cầm bút đổi về Qui Nhơn nhiều cho nên bạn bè cũng khá đông. Không phải những người lính chúng tôi quen nhau (hầu hết cầm bút) mà, còn có những người không phải là lính. Như Hoàng Ngọc Châu. Lê văn Ngăn. Nguyễn Thị Thùy Mỵ (Đặng Hòa)...Nhưng không hiểu tại sao giữa tôi với Trần Hoài Thư là hai người lính bụi lại quen và thân với hai anh chàng văn nghệ: Phạm Cao Hoàng và Lê Văn Trung. Khi đó Hoàng và Trung là hai sinh viên của trường Sư Phạm Qui Nhơn đạo mạo, nghiêm chỉnh, vóc dáng của một người thầy trong tương lai. Không phải chỉ quen qua loa, mà quen thật tình như anh em trong một nhà. Cái tình thân ấy ngày càng gắn bó, cho dù hôm nay, đã trải qua gần 50 năm. Tuổi đời chồng chất. Tóc trên đầu đã bạc. Mà, mỗi lần nhắc đến căn nhà trong Khu Sáu ở Quy Nhơn là phải nói đến những người bạn một thời khốn khó ấy.  Ngay cả hôm nay. Thi tập "Vịn Vào Lục Bát" của Trần Hoài Thư đã phát hành, anh cũng không thể nào quên 4 anh em trong căn nhà thuê ấy. Cùng với những người bạn văn nghệ ghé đến rồi đi.

Nói đến nhà thơ Lê Văn Trung, theo tôi thì phải nói đến nhà thơ Phạm Cao Hoàng; Vì Trung và Hoàng là hai người đồng môn. Học một khóa Sư Phạm. Khi nói đến Hoàng và Trung không thể nào không nói đến Trần Hoài Thư. Tôi đã bụi mà Trần Hoài Thư còn bụi hơn tôi. Hai người lính bụi gặp hai anh chàng sinh viên Sư Phạm này có lẽ hạp nhãn hay sao mà gắn bó như  keo cho đến hôm nay. Dù người ở bờ Đông. Kẻ ở bờ Tây. Sau năm 1969, tôi xa ba người bạn của tôi. Phạm Cao Hoàng tôi còn gặp ở Phan Thiết, mỗi lần về phép. Lê Văn Trung đổi ra Quảng Ngãi. Trần Hoài Thư đổi vô Miền Tây Nam Bộ. Dù xa nhau. Nhưng mỗi khi gặp nhau là nói đến nhau. Nói đến căn nhà trong Khu Sáu Qui Nhơn năm nào.

Năm 1971 Lê Văn Trung đổi về Huế. Khi đó Trung đã lập gia đình. Chị Hiệp. Hai người đã có một cháu gái còn nằm nôi, trên dãy lầu thuê ở Phú Cam. Tôi đến thăm. Và Trung là người tham dự ngày vui của tôi ở Huế.

Sau này đã trải qua 47 năm (1970-2017) Trần Hoài Thư tìm thấy bài thơ: Lời cám Ơn Bạn Bè của Lê Văn Trung đi trên Bách Khoa năm 1970 thay mặt tôi để viết nên bài thơ khi Trung đến dự ngày vui của tôi. Xin trích hai đoạn: Xin cảm ơn bạn bè ta đã tới. Uống chút rượu mừng trong ngày cưới ta. Dù lũ mày về từ rừng cao núi thm. Dù đứa què chân, dù đứa mù lòa...Xin cám ơn bạn bè ta lần nữa. Đứa trên đồi cao, đứa dưới chân đèo. Có đứa nào ngày mai làm đám cưới. Không biết bạn bè còn được bao nhiêu.

Tôi chưa bao giờ đọc bài thơ này của Trung trong thời gian còn trong quân ngũ. Những người lính như tôi không có nhiều thời giờ thả rong ở phố thị. Nhận được bài thơ từ anh Trần Hoài Thư tìm kiếm trên tạp chí Bách Khoa cũ, lòng tôi rất cảm động và nhớ rất nhiều về tình bạn trong căn nhà Khu Sáu Qui Nhơn năm nào. Cùng với bài thơ của Trung, anh Trần Hoài Thư còn gởi cho tôi một tin vui của bạn bè chúc mừng tôi trên một tạp chí phát hành ở Sài Gòn: kể từ hôm nay, tôi (PVN) không còn phải ngủ bụi. Tôi vui biết mấy khi có những người bạn văn nghệ hiểu tôi.

Tháng 9 năm 2001 Thư Quán Bản Thảo phát hành. Ba số sau, chúng tôi liên lạc lại được với các bạn bè cầm bút trong nước viết bài gởi ra cho TQBT. Trong đó có anh Từ Thế Mộng. Bạn bè ai cũng có máy vi tính riêng anh TTM thì không. Anh viết thư tay và gởi bài qua cho tôi (gởi qua đường bưu điện). Nhiều khi cả tháng tôi mới nhận được thư của anh. Trong những lá thư anh gởi qua, có nói đến Lê Văn Trung đi làm phụ hồ cho một công ty xậy dựng đang công tác tại Phan Thiết. Trung có đến nhà tôi, hỏi thăm tôi. Năm ấy là năm 2004. Anh Từ Thế Mộng cho Trung biết gia đình tôi đã đến Mỹ năm 1991.

Thế  rồi, vào năm 2010, lần thứ hai tôi về VN sau đó một năm. Tại nhà Nguyên Minh được tổ chức ra mắt sách cho ba người: Nguyên Minh, Lê Văn Trung và tôi (PVN). Hai tập truyện và một tập thơ được Nguyên Minh trình bày trang trọng. Và cũng chính Nguyên Minh là người thuyết minh trong buổi ra mắt sách hôm đó.  Buổi ra mắt sách gồm khoảng 20 người bạn cầm bút là bạn bè trước 1975.

Lần đầu tiên, sau năm 1971, tôi gặp Lê Văn Trung cùng với những anh em khác trong đó có Lê Ký Thương. Chúng tôi ôm nhau từng người. Ứa nuc mắt trong ngày gặp lại.

Vào năm 2014. Tháng 5. Tôi về thăm nhà và cũng để tham dự ngày giỗ của anh Từ Thế Mộng. Một niềm vui khó tả là ngày đó Thư Ấn Quán in lại tập thơ: Tiếng Thơ Miền Trung phát hành vào năm 1959, gồm 5 nhà thơ trẻ: Cao Hoàng Nhân. Thanh Nhung. Thương Nguyệt. Từ Thế Mộng. Võ Thùy Lam. Tập thơ này tìm được từ một nơi bán giấy vụn mà nhà thơ Lê Ký Thương tìm và mua lại, gởi qua cho Thư Ấn Quán để tái bản. Ngày giỗ anh Từ Thế Mộng tôi mang về gồm bản gốc và gần 20 tập mới in lại để trên bàn thờ của anh.

Riêng tôi rất vui vì trong ngày giỗ anh Từ Thế Mộng. bạn bè của tôi nghe tôi về, dù ở xa cũng đến. Như vợ chồng nhà thơ Nguyễn Dương Quang từ Đà Lạt lái xe xuống. Nhà thơ Tô Duy Thạch đón xe đò từ Phan Rí vào trước một ngày. Vợ chồng nhà thơ Lê Văn Trung đi xe gắn máy từ Đồng Nai ra. Ngoài ra còn có bạn bè tại thành phố biển Phan Thiết: như nhà thơ Nguyễn Như Mây, Vợ chồng nhà thơ Nguyễn Thị Liên Tâm....

Buổi sáng, anh chị em ngồi chờ Lê Văn Trung tại ngôi quán cà phê rất nên thơ. Tôi dám nói ở thành phố tôi ở Houston chẳng hạn, chưa có quán cà phê nào đẹp và nên thơ như những quán cà phê ở quê nhà. Trên đường đi, Trung báo cho tôi hằng phút, hằng giây. Đi tới đâu. Cây số mấy. Đoạn đường từ Đồng Nai ra Phan Thiết chắc cũng gần 200 cây số. Anh em ngồi chờ. Riêng tôi thì rất háo hức chờ người bạn lâu năm. Hôm nay phải nói chuyện nhiều với Trung.

Chuyện nói thì nhiều lắm. Ngồi trước mái hiên nhà xưa cũ, nơi tôi đã lớn lên. Chuyện xưa nói làm sao cho hết. Nhìn Trung, tôi thấy có một cái gì đó buồn buồn trên gương mặt khắc khổ của anh. Nỗi buồn đó như thởi gian làm xói mòn trên từng viên gạch trong ngôi nhà cổ của tôi. Mỗi lần tôi nhìn lên những vách tường loang lổ. Trung ơi! Sao hôm đó chỉ có tôi với Trung. Sao hôm đó không có đủ bốn người, như dạo nào ở trong căn nhà thuê Khu Sáu Qui Nhơn. Trung nhắc lại tên từng người, từng người. Trí nhớ bỗng trở về trên từng gương mặt. Trần Hoài Thư ơi! Phạm Cao Hoàng ơi!

Tháng 10 năm 2017. Tôi nhận tập thơ Thu Hoang Đường gồm 92 bài của Lê Văn Trung. 92 bài thơ Trung viết về mùa Thu. Mỗi bài mỗi vẻ. Buồn man mác. Nỗi buồn ấy như còn vấn vương trên gương mặt của Trung mà năm 2014 tôi nhìn thấy. Tập thơ của Lê văn Trung phải hình thành nói như lời nói của hai người bạn của tôi: anh Trần Hoài Thư và anh Tô Thẩm Huy. Cám ơn. Cảm ơn Đất Trời Vô Lượng đã cho tôi những người bạn tốt hôm nay.

PHẠM VĂN NHÀN 
Houston. Ngày 3 tháng 12 năm 2017