Trương Vũ
MƯA
ƯỚT VỊ THÀNH
Chân dung Trương Vũ,
tranh Trương Thị Thịnh, sơn dầu trên bố, 24” x 30”, 1986
Cách đây hơn 20 năm, tôi bắt đầu tham dự
khá thường xuyên vào các sinh hoạt văn học ở hải ngoại, trong suốt một thời
gian khá dài kể cả lúc còn làm việc toàn thời gian ở NASA trước khi về hưu. Hợp
tác với Wayne Karlin để thực hiện tuyển tập văn chương chiến tranh The Other Side of Heaven, hợp tác với
giáo sư Huỳnh Sanh Thông của đại học Yale cho tập san Việt Học The Vietnam
Review, viết bài và hợp tác với một số tạp chí văn học Việt Nam ở hải ngoại,
thuyết trình ở một số hội thảo về văn học, v.v... Sự tham dự tương đối năng động
vào những sinh hoạt đó có vẻ như bất bình thường, vì văn học là một lãnh vực
tôi không hề được đào tạo ở trình độ cao. Mà, ngay cả ở trung học, bạn bè đều
biết tôi là một đứa học trò rất tầm thường về môn văn. Từ bé tới lớn, tôi chưa
bao giờ có ý nghĩ trở thành một nhà văn hay một giáo sư văn chương.
Một hôm, trong một hội thảo hè dành cho
các nhà văn trẻ tổ chức ở đại học St. Mary thuộc tiểu bang Maryland, một nhà
văn trao đổi với tôi về trường hợp của cô. Cô mê văn chương, viết rất nhiều
truyện ngắn, đang vật lộn với đời sống và phấn đấu với chính mình để xem có nên
tiếp tục sống toàn phần cho văn chương và bán phần cho sinh kế, hay ngược lại.
Cô muốn tôi lấy kinh nghiệm cá nhân để giúp cô ý kiến. Rất tiếc, hôm đó tôi chẳng
giúp gì được vì chẳng có kinh nghiệm nào về chuyện này. Câu trả lời của tôi khá
mông lung. Văn chương có giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống của tôi thật
nhưng không phải để tôi trở thành nhà văn, mặc dầu đôi khi, do những gì đã viết
ra, nhiều người trong văn giới gọi tôi là nhà văn. Tuy nhiên, nhân câu chuyện
trên, tôi thấy cần viết một bài về đề tài này, về cái vị trí của văn chương
trong đời sống của mình, để từ kinh nghiệm riêng chia sẻ được gì với người
khác. Đặc biệt, tôi muốn chia sẻ với những bạn trẻ giống như tôi trước đây,
không được đào luyện tốt về văn chương ở trường ốc và sống với những ngành nghề
gần như trái ngược. Tôi xin viết một cách tản mạn, và tản mạn từ những chuyện rất
riêng tư.
Tôi tin mỗi người trong chúng ta đều
mang trong tim mình những dấu ấn, những tì vết gây ra từ một biến cố trong đời,
một chấn động mạnh hay có thể chỉ là một hình ảnh đến rất nhanh, như một nụ cười,
một giọt nước mắt, … Để rồi, sau đó, vào một lúc rất bất chợt, con tim nhói
lên, cái cách vui buồn thương ghét trong cuộc đời bỗng thay đổi. Một bài thơ, một
cuốn sách đã đọc vào một lúc nào đó cũng có thể làm nên chuyện như vậy.
Tôi xuất thân là một thầy giáo toán, được
gọi nhập ngũ khi có lệnh tổng động viên lúc chiến tranh ở miền Nam trở nên tàn
khốc. Sau hơn hai năm, được biệt phái trở về dạy học lại. Cách sống của tôi
thay đổi hẳn. Đời sống trong quân ngũ có làm tôi thay đổi thật, nhưng ảnh hưởng
lớn nhất thật ra là từ một bài thơ, của một nhà thơ sống cách đây hơn ngàn năm ở
một nơi xa lắm.
Cách đây gần 50
năm, sau khi tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi đi trình diện đơn vị ở một
hải đảo xa. Tôi nhớ, đó là một buổi sáng mưa nhẹ hột. Trên đường đi đến đơn vị,
tôi và một người bạn cùng khóa mang ba-lô đi bộ lên một ngọn đồi, trên đó có một
quán ăn nhỏ. Chúng tôi vào quán uống cà phê. Ngồi khá lâu vì mưa bắt đầu nặng hột.
Đơn vị ở cách đó không xa nhưng qua mưa không nhìn thấy. Cả hai châm thuốc hút,
rồi bỗng nhiên, tôi nhớ tới một bài thơ của Vương Duy. Tôi đọc lên. Bạn tôi chỉ
mỉm cười, im lặng, phà khói thuốc, rồi lãng đãng nhìn những giọt mưa rơi từ mái
tôn xuống bậc thềm. Năm đó, dù đã dạy học một thời gian trước khi động viên,
tôi chỉ mới vừa qua tuổi 26. Bạn tôi, cũng cùng tuổi và cả hai đều đã có gia
đình. Tôi nhớ rất rõ bản tiếng Hán, Vị
Thành Khúc (渭城曲), của
Vương Duy:
Và, cả bản dịch của Ngô Tất Tố:
Trời
mai mưa ướt Vị Thành
Xanh
xanh trước quán mấy nhành liễu non
Khuyên
chàng hãy cạn chén son
Dương
Quan đến đó không còn ai quen
Đây chắc không phải là bài thơ hay nhất
của Vương Duy và càng không phải là bài thơ hay nhất của Đường Thi. Chắc cũng
không có bao nhiêu bạn đọc cảm xúc gì nhiều khi đọc bài này. Nhưng, với tôi,
khi đọc lên tôi xúc động. Tôi biết tôi đã đọc nó lần đầu tiên từ cuốn Đại Cương
Văn Học Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, lâu lắm rồi, khi còn ở trung học,
trong căn nhà cũ gần bờ biển Nha Trang, nơi tôi đã sống suốt tuổi thơ. Bài thơ
đó, thời gian đó, không gian đó, với những xúc cảm của lúc đó, tưởng quên đi,
nhưng không. Cũng từ đó, tôi đọc nhiều sáng tác văn học hơn mỗi khi rảnh và nhớ
lại nhiều bài thơ đã học và đã quên.
Ở hải đảo có một thời gian tôi làm sĩ
quan tuần tra. Tôi nhớ, một buổi tối, mưa tầm tã, khi hết phiên trực, tôi ghé
vào lều của một ông thượng sĩ già, xin cà phê uống. Ở đó, người sĩ quan trực kế
tiếp, MDT, cũng đang ngồi uống cà phê. MDT trước khi động viên dạy Pháp văn ở
Huế. Trong khi trò chuyện, bỗng nhiên T. nói về những tiểu thuyết Pháp đang ăn
khách như Bonjour Tristesse, Un Certain
Sourire,… của Françoise Sagan, rồi quay trở lại nói về những tác phẩm học ở
thời trung học, những tác phẩm của Alphonse Daudet hay Anatole France, rồi Nguyễn
Du của ngày xưa, rồi Bùi Giáng của ngày nay, rồi quay sang nói về Sartre, về
Camus, v.v… Chúng tôi nói say sưa, ông thượng sĩ già châm thêm cà phê, lặng lẽ
nghe và thỉnh thoảng nở nụ cười độ lượng. Trước khi chia tay và bắt đầu phiên
trực của mình, T. nói với tôi: “Tụi mình…
à la recherche de la jeunesse perdue!” Tôi cũng thấy mình già đi thật. Bây
giờ, mỗi lần nghĩ lại, thấy… tếu tếu. Tuy nhiên, những câu chuyện theo kiểu câu
chuyện trong lều của ông thượng sĩ già đó, đã giúp tôi rất nhiều để những ngày
tháng nơi hải đảo bớt đi cái nhớ nhà, cái lo sợ, cái nhàm chán. Và, dù hễ mở miệng
là thích nói về cái tuổi trẻ đã mất, nhưng chính vào thời gian đó, từ những câu
chuyện văn chương đó, tôi thấy cái tuổi trẻ thật sự của mình bắt đầu bừng lên một
sức sống mãnh liệt. Tôi nghĩ đến những ngày tháng tới, khi không còn chinh chiến,
hay khi được trở về với đời sống thường dân, tôi sẽ sống khác, nhìn cuộc đời
cách khác. Và, quả thật, khi về lại, tôi vẫn tiếp tục dạy toán, nhưng tôi có
khác.
Trên sách vở, trong nghiên cứu, toán học
và văn học có một lằn ranh rõ rệt, nhưng trong mỗi con người, lằn ranh đó có thể
rất mờ nhạt. Khi tìm hiểu về cuộc đời các nhà toán học, tôi ấn tượng nhất về một
thiên tài mà cuộc đời ngắn ngủi của ông có thể là đối tượng tuyệt vời cho một
tác phẩm văn chương. Một thiên tài đã sống tận cùng cho sự đam mê về toán học,
về những lý tưởng nhân bản, và về chất lãng mạn trong tình người và tình yêu.
Tôi muốn nói về Evariste Galois. Ông sinh ngày 25/10/1811 ở Bourg-la-Reine,
Pháp. Năm 14 tuổi đã bắt đầu có những ý niệm mới và nghiêm chỉnh trong toán học.
Đến năm 19 tuổi ông đã công bố những công trình quan trọng làm nền tảng cho “Lý
Thuyết Galois” và “Lý Thuyết Nhóm” trong đại số trừu tượng (abstract algebra).
Trong lúc chăm chú vào những phát kiến toán học, ông vẫn tham gia vào chính trị
Pháp, tranh đấu cho nền cộng hòa Pháp, đi đầu trong cuộc biểu tình chống đối
vua Louis Philippe. Bị bắt và bị xử sáu tháng tù. Trong tù, ông ngồi viết tiếp
những công trình toán học. Ra khỏi tù tháng 4/1832. Qua tháng sau, để bênh vực
danh dự của người yêu, Stephanie-Felice du Motel, ông chấp nhận tham dự một cuộc
đấu súng. Năm ngày trước cuộc đấu, ông viết thư cho một người bạn, tâm sự về mối
tình này. Đêm trước khi đấu, biết rằng mình sẽ chết, ông thức suốt đêm để hoàn
tất những công trình toán học còn dở dang. Sáng sớm hôm sau, ông bị bắn ở bụng,
mọi người bỏ đi, để ông nằm một mình ở đấu trường. Đến 10 giờ, một nông dân
nhìn thấy đưa đến bệnh viện gần đó. Chỉ có người em trai, Alfred, được thông
báo. Câu cuối cùng ông nói với em: “Đừng
khóc, Alfred! Anh cần sự can đảm để chết ở tuổi hai mươi.”
Một trăm bốn mươi năm sau, ở Nha Trang,
tôi bắt đầu dạy sinh viên Lý Thuyết Nhóm của Galois. Chương trình trung học
Pháp đưa Lý Thuyết Nhóm vào năm cuối của ban toán trước đó vài năm. Chương
trình trung học Việt thì chưa.
Tôi không phải là một thiên tài như
Galois, dĩ nhiên, nhưng toán học ảnh hưởng vào đời sống tôi rất nhiều. Những hiểu
biết cơ bản về toán học cũng đã giúp tôi không ít khi đi vào các chuyên môn
khác như vật lý hạt nhân, như kỹ sư điện hay như kỹ thuật không gian mà sau này
tôi phải sống với nó một thời gian khá dài. Tuy nhiên, điều tôi muốn chia sẻ ở
đây với các bạn trẻ là tinh thần toán học, nhất là, thói quen tìm giải đáp cho
những nghi vấn, đã giúp tôi đến với văn chương thi vị hơn. Xin kể một câu chuyện.
Thời còn ở trung học, tôi được đọc bản tiếng Việt một tác phẩm của Leo Tolstoi,
nhan đề Một Bản Đàn, do nhà văn
Trương Bảo Sơn chuyển ngữ, có lẽ từ một bản tiếng Pháp. Tôi đọc say mê. Tác phẩm
xây dựng trên thảm kịch của một cặp vợ chồng. Vì nghi ngờ vợ mình có tình ý với
một ông thầy dạy nhạc, một nhà quý tộc giàu có nổi cơn ghen giết vợ. Một truyện
dài rất hay. Rất thích nhưng tôi luôn tự hỏi tại sao nhà văn TBS lại đặt nhan đề
là Một Bản Đàn. Vì, sau này, sau khi
được đọc bản dịch tiếng Pháp La Sonate à
Kreutzer, tôi ngờ rằng Tolstoi rất có cố ý khi lấy tên một bản sonate của
Beethoven, “Bản Sonate cho Kreutzer”,
làm nhan đề cho cuốn tiểu thuyết. Nó phải là bản sonate đó chớ không phải một bản
đàn nào cũng được. Ý của Tolstoi, theo tôi, là chính bản nhạc đó, bản sonate đó
của Beethoven, đã đóng góp vào thảm kịch. Nhưng, tôi không chắc lắm, vì không
biết gì về bản sonate này.
Hơn hai mươi năm sau, khi sống ở
Philadelphia, một hôm có dịp vào thư viện thành phố. Tình cờ, thấy bản tiếng
Anh, The Kreutzer Sonata, tôi nhớ lại
cái nghi vấn ngày nào. Tôi vào phòng thính âm, xin được nghe bản sonate này. Bản
“Sonate cho Kreutzer” được Beethoven soạn cho dương cầm và vĩ cầm. Bản tôi được
nghe do Arthur Rubinstein và Henryk Szeryng trình tấu. Rubinstein phụ trách
dương cầm, Szeryng vĩ cầm. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần. Tiếng dương cầm hòa
với tiếng vĩ cầm một cách tài tình, réo rắt, tha thiết, làm ruột gan người nghe
thắt lại. Tôi hình dung ra buổi hòa nhạc trong ngôi nhà vị quý tộc. Tôi tưởng
tượng ra cảnh ông quý tộc ngồi nhìn vợ mình với ông thầy dạy nhạc say sưa trình
tấu, như không cần biết có ai xung quanh. Ông quý tộc giàu có nhưng trong người
ông không có bao nhiêu chất âm nhạc, chất thi ca. Ông nhìn cảnh vợ ông (chơi
dương cầm) với ông thầy (chơi vĩ cầm) để hết tâm hồn vào bản nhạc. Tiếng nhạc
quyện lẫn vào nhau da diết mãnh liệt. Ông hình dung ra một cảnh khác. Ruột gan
ông bấn lên nhưng ông ghìm lại. Sau buổi trình tấu, ông vẫn giữ cung cách của một
quý tộc, cười nói khen ngợi vợ. Một thời gian ngắn sau đó, thảm kịch xảy ra.
Cách đây ba năm, tôi lên Amazon tìm mua
CD bản The Kreutzer Sonata cũng do
Rubinstein và Szerying trình tấu để nghe lại. Tôi tin rằng tôi hiểu được ý của
Tolstoi khi chọn bản sonate này làm nhan đề cho cuốn tiểu thuyết. Tôi tin rằng
cái nghi vấn của tôi đúng. Nhưng, thật ra, đúng hay sai không quan trọng. Quan
trọng là chính cái nghi vấn đó đã cuối cùng mang đến tôi một niềm vui, một may
mắn, được thưởng thức một bản sonate tuyệt vời. Riêng đối với nhà văn Trương Bảo
Sơn, dù vẫn không đồng ý với ông về cách đặt tên cho bản dịch cuốn tiếu thuyết,
tôi luôn kính trọng ông, và rất cám ơn ông đã đem đến cho lớp trẻ chúng tôi vào
thời đó một món ăn tinh thần rất có giá trị của Leo Tolstoi.
Leo Tolstoi và Fyodor Dostoyevsky là những
tên tuổi lớn của văn học cổ điển Nga, và của cả nhân loại. Ngoài hai nhà văn
này, sự hiểu biết của tôi về văn học Nga vào thời còn đi học rất giới hạn. Về
sau, do tình cờ, tôi đọc Anton Chekhov qua các bản dịch tiếng Anh và thích tác
giả này, đặc biệt các kịch phẩm của ông như Three
Sisters (Ba Chị Em), The Cherry
Orchard (Vườn Anh Đào)… Do thích vở Three Sisters nên khi biết vở này được
trình diễn tại một kịch viện nhỏ, The
Studio Theatre, tôi đến xem. Nhân vật chính trong kịch là một gia đình có
ba chị em và một em trai. Thời trẻ họ sống ở Moscow khi ông cha chỉ huy một lữ
đoàn ở đó, cho đến khi ông về hưu cách đó mười một năm. Sau đó họ mất cả cha lẫn
mẹ. Giấc mơ của ba chị em là một ngày nào đó họ sẽ về lại Moscow. Nhiều tình tiết
và bi kịch được dựng lên từ đó. Lời lẽ trong vở kịch trình diễn ở The Studio
Theatre hơi khác trong bản dịch tiếng Anh trong sách một chút. Tối hôm đó, sau
khi dự vở kịch xong, về lại nhà, nghĩ lại vở kịch, tôi nhớ nhất câu nói và cách
nói của người đóng vai Irina (cô em út) nói với Olga (cô chị cả): “Chị Olga, em sẽ lấy Nam Tước, em sẽ về
Moscow. Tụi mình sẽ về Moscow.” Và rồi, tôi nghĩ đến một buổi tối ở giảng
đường của trường Đại Học Duyên Hải trên đường Yersin, Nha Trang. Tối hôm đó, bạn
tôi, giáo sư Bửu Ý, thuyết trình một đề tài đặc biệt: “Văn Chương Trên Giấy, Văn Chương Trên Sàn Gỗ.” Trong phần thuyết
trình, một sinh viên Việt Hán, Dương Đề, được Bửu Ý chọn lên trình bày vài diễn
xuất ngắn. Những câu nói trong phần diễn xuất của Dương Đề luôn chấm dứt bằng
câu “Ngày mai tôi sẽ về Sài Gòn.” Bao
nhiêu năm đã trôi qua, tôi vẫn còn nhớ khá rõ dáng điệu của Dương Đề khi vừa đi
vừa nói câu đó trên sân khấu. Bửu Ý là một học giả nổi tiếng, dạy văn chương
Pháp ở Đại Học Huế, và cũng là một kịch tác gia. Kịch phẩm Sương Hồng và Tuyệt Địa của Bửu Ý đã được xuất bản và trình diễn ở
Sài Gòn trước 1975. Bửu Ý được mời phụ trách tín chỉ nhiệm ý về kịch nghệ cho
sinh viên Duyên Hải và cùng với thầy Bửu Phi giúp sinh viên thực hiện một vở kịch
cho đại học. Sau 1975, Bửu Ý có thời gian làm chủ nhiệm ban Văn Chương Pháp ở Đại
Học Huế, nhiều lần được mời sang giảng dạy ở Pháp. Anh cũng được tưởng thưởng một
huy chương cao quý của Pháp do chính đại sứ Pháp tại Việt Nam đích thân trao tặng.
Tuy nhiên, không thấy Bửu Ý còn dính dấp gì đến kịch nghệ. Vở kịch năm xưa chắc
chắn không thể nào được tái bản. “Văn
chương trên sàn gỗ” cùng với trường Đại Học Duyên Hải đã hoàn toàn đi vào
quá khứ.
Nhiều thứ đã đi vào quá khứ nhưng vẫn để
lại những dấu vết sâu đậm trong tim mình. Tôi muốn nói về một câu chuyện thật,
được kể lại để làm nền cho tác phẩm The
Bridge on the Drina (Chiếc Cầu trên sông Drina) của nhà văn Nam Tư
(Yugoslavia) Ivo Andrić, giải thưởng văn chương Nobel 1961. Tác phẩm lấy bối cảnh
của thành phố Visegrad của Bosnia từ thế kỷ 16 trở về sau. Đây là nơi thường
xuyên chứng kiến những tranh chấp tàn bạo giữa hai đế chế Thổ và Áo-Hung, và
cũng là tranh chấp giữa Hồi Giáo với Thiên Chúa Giáo (gồm Công Giáo và Chính Thống
Giáo) liên tục suốt 400 năm. Để ngăn chận sự phát triển của Thiên Chúa Giáo,
người Thổ tổ chức bắt cóc những đứa con nít thuộc gia đình Thiên Chúa Giáo, thường
là những gia đình nghèo, đưa sang vùng cai trị của Thổ, bên kia sông Drina. Những
đứa bé này được cải sang đạo Hồi và lớn lên như người Thổ. Rất nhiều bà mẹ đưa
con đi chợ với mình, quay nhìn lại không thấy con đâu, rượt theo kẻ cướp cho đến
bờ sông Drina, dừng lại, ngơ ngác nhìn theo chiếc phà chở con qua sông. Lúc đó,
phà là phương tiện duy nhất để qua sông. Bên kia là vùng cai trị của đế quốc Thổ.
Thời gian đầu ở Mỹ, cả gia đình tôi còn
lại Việt Nam. Hình ảnh những bà mẹ đứng ngơ ngác bên này sông Drina luôn ám ảnh.
Có nhiều đêm, tôi nằm mơ thấy dẫn các con đi chơi, đang ngồi ăn uống vui vẻ, chợt
nhìn lại không thấy con mình đâu. Tôi thức dậy, tim còn nhói. Mãi sau này, bao
nhiêu năm sau khi đã đoàn tụ đầy đủ với gia đình, những giấc chiêm bao như vậy
thỉnh thoảng vẫn hiện ra. Tôi đồng cảm với cái nhói tim của ông Tể Tướng Thổ,
Mehmed-paša Sokolović. Một trong những đứa bé bị bắt qua sông Drina như đã nói
trên đây được một gia đình quyền quý Thổ nhận làm con nuôi, đổi đạo, đổi tên. Lớn
lên, nhờ tài năng, thăng lần lên đến bậc thang cuối cùng của danh vọng, giúp đế
quốc Thổ bành trướng tận Trung Âu, giữ chức Tể Tướng (First Grand Vizier) cho
Thổ. Với ông Tể Tướng Thổ, chuyện đứa bé bị bắt đưa qua sông ngày nào tưởng đã
hoàn toàn đi vào quá khứ. Nhưng không, có người nói là ông thường bị những cơn
nhói tim. Vào một lúc như vậy, có lẽ, ông làm một quyết định lớn là cho xây một
chiếc cầu qua sông Drina. Xây từ năm 1566 nhưng mãi đến 5 năm sau mới hoàn tất.
Và, từ đó, cây cầu cũng như con sông tiếp tục chứng kiến bao đổi thay, bao bi
hài kịch của cuộc đời, và cả bao tàn phá lẫn xây dựng.
Ở trên, tôi có nói về buổi thuyết trình
của Bửu Ý trong một giảng đường của Đại Học Duyên Hải. Cũng chính trong giảng
đường đó, một người bạn khác, nhà thơ Huy Tưởng, đã trình bày một đề tài về Thi
Ca. Tôi xin kể lại đây câu chuyện mở đầu của Huy Tưởng. Có một ông thần, một buổi
tối đẹp trời ông bay qua một con sông, nhìn xuống thấy một người con gái đang tắm
dưới ánh trăng. Ông đoán đó là một hình ảnh đẹp và ông muốn biết nó thực sự đẹp
như thế nào, ông muốn tận hưởng nó. Ông phải đến gần. Sợ gây tiếng động mạnh
làm cô gái hoảng sợ, ông biến thành một con chuột, nhẹ nhàng đến gần cô gái.
Tuy nhiên, là chuột thì cái ham thích chỉ là những rác rưới trên bờ sông, nó
không màng gì đến cô gái, nó không thấy cô gái đẹp chỗ nào. Thất bại. Ông biến
ra nhiều hóa thân khác. Có hóa thân là một vị hoàng đế trẻ đẹp, quyền uy.
Nhưng, khi thấy cô gái, vị hoàng đế chỉ muốn ra lệnh đưa nạp cô vào cung. Thất
bại. Và, nhiều thất bại tiếp theo. Cuối cùng, ông quyết định biến thành một thi
sĩ. Người thi sĩ thấy được cái hồn nhiên, thanh thoát của cô gái, và cái đẹp
tuyệt vời của sự quyện lẫn giữa thân xác mịn màng với trăng vàng long lanh trên
mặt nước. Ông thành công.
Huy Tưởng! Bạn đang ngồi đâu đó, nếu có
đọc những dòng chữ này xin đừng cười. Dĩ nhiên là tôi… cương. Bao nhiêu năm
tháng đã qua rồi, làm sao tôi nhớ cho đúng hết những gì bạn nói. Nhưng, tôi tin
là tôi không sai ý. Dầu sao, tôi cũng chỉ muốn mượn câu chuyện này để nói đôi lời
với các bạn trẻ. Hãy đem văn chương vào đời
sống. Dù có làm thơ hay viết văn hay không, hãy đến với cuộc đời bằng tâm hồn của
một thi sĩ. Bạn sẽ thấy cuộc đời đẹp hơn. Bạn sẽ thấy con người đẹp hơn. Dĩ
nhiên, bạn vẫn có thể làm thơ hay viết văn mà lại không đến với cuộc đời bằng
tâm hồn một thi sĩ. Nhưng, đây là câu chuyện khác.
Khi nhắc đến thành phố Visegrad, nơi có
cây cầu được xây qua sông Drina, tôi nhớ đến cái thành phố tôi đã sống suốt tuổi
thơ. Như nhiều người, tôi thỉnh thoảng vẫn có một ước mơ biết là không thể có,
là có lại cái tuổi trẻ của mình. Của những ngày mà ba má tôi còn, tất cả anh chị
em tôi còn và cái hồn nhiên của tôi còn. Chỉ là mơ ước, dĩ nhiên! May mắn là
bên cạnh những cái không còn đó, có những cái vẫn còn. Những con sông chảy qua
thành phố, và biển. Từ một con sông chảy ra biển, một sớm nào tôi đã theo đó mà
ra khơi. Tôi đã hò hẹn với con sông, với biển, và với bao nhiêu người là tôi sẽ
trở lại. Và, tôi đã gặp lại rất nhiều trong số đó. Tôi nhớ mấy câu thơ của một
người bạn Nha Trang của tôi, nhà thơ Hải Phương:
Cám
ơn biển
biển
trùng khơi con sóng vỗ
trăm
nhánh sông hò hẹn chuyến đò qua
……..
Maryland,
cuối tháng 7 năm 2017
(Trích từ tuyển tập tiểu luận ĐUỔI BÓNG HOÀNG HÔN, NXB Nhân Ành, Hoa
Kỳ, 5.2019}