Tuesday, June 22, 2021

2066. NGUYỄN VY KHANH Nguyễn Thị Thụy Vũ và những người nữ lao vào lửa

 

 

Tên thật Nguyễn Băng Lĩnh, sanh năm 1937, tại Vĩnh Long, giáo viên ở quê nhà Vĩnh Long và từ 1961 lên Sài-Gòn dạy Anh văn cho các phụ nữ bán bar. Tác-phẩm đã xuất-bản gồm các tập truyện ngắn Mèo Đêm (Thời Mới; Kim Anh, 1967),  Lao Vào Lửa (Kim Anh, 1967),  Chiều Mênh Mông (Kim Anh, 1968) và các truyện dài Ngọn Pháo Bông (Tan Trên Lưng Gió, Hiện-Đại, 1968), Thú Hoang (Hồng Đức, 1968), Khung Rêu (Kẻ Sĩ, 1969), Như Thiên Đường Lạnh (Kẻ Sĩ, 1972), Chiều Xuống Êm Đềm (Văn, 1972), Nhang Tàn Thắp Khuya (Nguyễn Đình Vượng, 1972) và Cho Trận Gió Kinh Thiên (Nguyễn Đình Vượng, 1973) [Năm 2017, nhà Phương Nam và NXB Hội Nhà Văn trong nước đã cho tái bản 10 tác-phẩm].

Nguyễn Thị Thuỵ Vũ xuất hiện trên văn đàn miền Nam năm 1965, thuộc thế hệ mới đã bị đô thị hóa; bà đã đưa vào văn chương miền Nam lời ăn tiếng nói của người Sài-Gòn - ngoại lệ Khung Rêu bà viết về một miền Đông trước thời Kháng chiến và vài truyện ngắn phong tục về thời trước đó. Miền Nam trong văn chương Nguyễn Thị Thụy Vũ là một Sài-Gòn thị tứ với những cuộc sống tân thời và những vấn-đề  của thời mới, chuyện các cô gái lỡ thời, gái bán bar, me Mỹ và làm sở Mỹ (Mèo Đêm, Thú Hoang, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông,...). Sau 1972, bà đã đưa đời sống "miệt vườn" vào tiểu thuyết, trong Nhang Tàn Thắp Khuya,  Khung Rêu,... phần lớn nói về giới giàu có, điền chủ và phong tục ở chốn quê! Nguyễn Thị Thụy Vũ đầu tiên được biết đến là nhà văn đã đưa vào văn-học đời sống của gái bán bar, với cuộc sống và những con người hiện thực, chạy theo sống còn, do đó tác-phẩm của bà khác với vài nhà văn nữ khác cùng thời,  không hề có dấu vết hiện sinh thời thượng của văn-nghệ thời đó và không có những chất vấn siêu hình về thân phận hay tha nhân, về phi lý của cuộc đời, v.v.



Uyên Thao trong Các Nhà Văn Nữ Việt-Nam 1900-1970 (Nhân Chủ, 1973) đã có những nhận xét về thế-giới tiểu-thuyết của Nguyễn Thị Thụy Vũ: "...trong thế giới tù hãm của cuộc sống tỉnh lẻ vừa vụn vặt, vừa khắc nghiệt ấy, Thụy Vũ đã cho thấy tất cả những người đang sống chỉ thực sự sống bằng cách chạy trốn. Trong khi những kẻ yếu đuối chạy trốn vào vùng trời tưởng tượng bi thảm của mình thì những kẻ tương đối mạnh dạn hơn chạy trốn vào sự giả dối, che đậy. Ngoài hai lớp người ấy là một lớp người chạy trốn thực sự, chạy trốn bằng cách ném mình vào những cuộc phiêu lưu mà mọi tính toán chỉ dừng lại ở một điểm duy nhất: miễn là tách xa được thế giới tù hãm này" (tr. 196) và rằng: “Theo quan điểm của Freud, chúng ta có thể cho rằng Nguyễn Thị Thụy Vũ là một người bị dồn nén trầm trọng về tình dục. Khởi từ đây, chúng ta có thể hướng công việc phát họa chân dung Nguyễn Thị Thụy Vũ theo các suy luận dựa trên những tìm tòi hướng về tác giả đó" (tr. 209).

Mèo Đêm (1967) gồm các truyện ngắn Mèo Đêm (Bách Khoa, 214, 1-12-1965), Nắng Chiều Vàng, Một Buổi Chiều và Đợi Chuyến Đi Xa. Hai truyện đầu khai thác chuyện của những cô gái bán Bar thời quân lính Hoa-Kỳ tràn ngập miền Nam, hai truyện sau viết về những cô gái lỡ thì, những thèm tưởng tình dục (bóng gió “Bóng tối đã ôm choàng thành phố ngoài khung cửa…”), như chuyện cô gái điếm về chiều Mi-sen (Michelle): “Hôm nay như thường lệ, tôi đến dạy Mi-sen vào những buổi trưa nắng gắt. Vào giờ này cánh cửa sắt trước nhà đã được chị Tư mở sẵn. Tôi cứ việc ung dung dẫn xe đạp vào và tự tay đóng cửa lại, không phải gọi chuông inh ỏi nữa. Đi ngang qua phòng khách tôi rẽ tấm màn quẹo qua buồng ngủ Mi-sen, rồi gõ nhẹ cửa.

– Cô giáo đó hả, vô đi.

Tôi đẩy cửa bước vào, rồi bất chợt dừng lại. Mi-sen cười ngặt ngoẹo:

– Vào đi cưng. Chờ chị làm massage một chút nghen.

Tôi tìm chiếc ghế ngồi cạnh giường, Mi-sen pha trò:

– Cô giáo hôm nay bắt gặp học trò trần truồng như nhộng. Chỗ đàn bà với nhau cả phải không cô.

Bây giờ tôi được dịp quan sát Mi-sen kỹ hơn. Nàng nằm trên một chiếc khăn lông màu hồng trải trên tấm nệm mút phủ “ra” trắng. Bà làm massage quỳ hai gối xuống nệm, hai bàn tay thoăn thoắt trên các bắp thịt mông và lưng nàng. Mồ hôi rịn ướt trên đôi tay gân guốc của bà. Mắt Mi-sen lim dim, dáng điệu nàng như con mèo sưởi nắng một cách khoan khoái. Lúc nào nhìn người đàn bà khỏa thân tôi cũng có một cảm giác lạnh lẽo và tê tái như nhìn một bức tranh tĩnh vật với màu sắc hết sức ảm đạm. Riêng đối với Mi-sen, tôi nghĩ rằng tấm thân nõn nà, với làn da mịn màng đó, có cái gì mong manh. Tuổi già đã gần kề nàng. Chẳng bao lâu nữa, những bắp thịt thon đẹp kia sẽ nở bung ra, bụng sẽ nhão nhoẹt. Nghĩ tới giai đoạn đó, tôi cảm thấy buồn hơn là ganh tị…” (Đợi Chuyến Đi Xa).

Bản tái-bản cùng năm của nhà Kim Anh có thêm 2 truyện Bóng Mát Trên Đường và Miền Ngoại Ô Tình Lẻ mà nhân-vật chính vẫn là những thiếu phụ thiếu quân bằng về tâm sinh lý.

Lao Vào Lửa gồm ba truyện ngắn Chiếc Giường, Lao Vào Lửa và Đêm Nổi Lửa viết về nếp sống và tâm tình giới phụ nữ bán bar và bán thân,... Truyện Lao Vào Lửa xoay quanh cuộc đời của Tú, một cô gái trẻ tuổi, nhà nghèo và cần tiền để sinh sống. Tú được Lan giới thiệu cho một công việc thâu ngân ở một quán bar mà Lan hứa hẹn là sẽ kiếm được một mức lương để sống. Tú gặp bà chủ quán bar, và được giới thiệu gặp chị Năm, một “lão làng” trong quán. Tú được đổi tên thành Tina. Một hôm Tina được một anh chàng Mỹ chú ý và mời uống. Sau đó tặng hoa cho cô mỗi ngày. Đến một hôm, Tina bước vào quán với một chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh trên tay. "Một người bạn cầm tay tôi suýt xoa:

– Cô Tina sắm chiếc nhẫn này bao nhiêu? Thằng "bồ" của con Thúy mua tặng đó hả? Mới vào nghề mà sao có phước quá. Chắc là con gái của ông trời. Tụi gái già này là thứ con ghẻ của ổng.

Đôi mắt hờn ghen quay sang lũ bạn. Một ả khác trầm trồ bằng giọng uốn éo:

- Gái trinh mới có giá như vậy chớ. Còn tụi tui tan hoang như ống cống thì chỉ có cách kiếm tiền mua hột xoàn giả...". Đúng là lời của một đàn chị!

Cũng chuyện chiếc nhẫn với chị Năm: “Chị tươi cười tiến đến bên tôi chìa bàn tay với móng sơn đỏ thắm rắc bột kim tuyến lụn vụn chiếu nhấp nháy trên vai tôi rồi trách: – Hôm qua em đi “phố” với Tommy phải không?

Chị bóp nhẹ tay tôi. Bỗng đôi mắt chị dừng lại trên chiếc nhẫn rồi từ từ buông thỏng tay tôi:

– Thôi đừng khóc. Lỡ rồi Tina à. Bề nào em cũng tới giai đoạn này” (tr. 71).

Các bạn đồng nghiệp của cô cũng trầm trồ khen ngợi, nhưng cũng lúc đó thì anh chàng người Mỹ cũng biến dạng. Hết người khách này đến người khác, Tina đã dần quen với công việc của mình, và gặp người Mỹ khác. Đây là một cảnh anh lính Mỹ này gạ tình: “Một bàn tay phủ lông như tay con dã nhơn đặt trên vai tôi. Tôi ngẩng đầu lên. Một tên Mỹ cao lớn, râu ria cạo nhẵn thính, những vết cạo trên râu quai nón vẫn làm tối sầm khuôn mặt hắn. Hắn nhẹ cười mơn trớn hỏi:

– Em tên gì?

Tôi trả lời cộc lốc:

- Tina.

Hắn lôi tôi vào lòng rồi đặt lên bắp đùi hắn. Bàn tay hắn sờ soạn lên ngực và eo của tôi. Chị Nam thường nói với tôi là tụi đàn ông Âu Mỹ lông lá như con dã nhân, mỗi ngày cạo râu hai lần thì hành sự rừng rú chịu không nổi. Tôi sợ sệt nhìn cánh tay hắn. Hắn buông thõng tay tôi tiếp tục cười:

– Ngủ với tôi đi.

Tôi giơ tay làm hiệu:

– Mười ngàn nghe.

Hắn lắc đầu:

– Mắc lắm cưng ơi! Nếu mười ngàn thì em phải trả tiền phòng và tiền ticket.

Tôi lãnh đạm lấy bông phấn ra sửa soạn lại nhan sắc rồi xách bóp đi chỗ khác. Hắn chặn lại đột ngột hỏi:

-Cô lấy Tây chưa?

Tôi hơi ngạc nhiên hỏi lại: – Hỏi chi vậy?

– Lấy Tây mới có 'kỹ thuật' hay chớ. Mười ngàn cũng được nhưng phải biết làm ái tình thật giỏi nghen cưng.

Tôi vụt gật đầu, quên tính rằng với số tuổi hiện giờ của mình chỉ đáng là con của me Tây thì đúng hơn. Nhưng tôi cũng nhận bừa... (Lao Vào Lửa).

Tina đồng ý nhưng cô chẳng biết gì. Khi tên lính Mỹ biết được mình bị gạt, hắn quát cô rồi bỏ đi, chỉ để lại một nửa số tiền đã hứa.

Truyện Chiếc Giường là giường của Tâm, một kỹ nữ đang về già, cũng là nơi hành nghề kiếm sống của cô, truyện mở ra với việc Tâm phá thai lần thứ tư. Tâm tuổi đã 40, “hốt hoảng trước tuổi già chập chờn vồ lấy mình” (tr. 13), nên nhờ một ông thầy cao tay dạy cô về cách sắp xếp chiếc giường theo phong thủy, cô lại kiếm được khách. Nhưng rồi vẫn ế ẩm như cũ. Tâm đành cho cô bạn tên Minh mượn xài đỡ chiếc giường linh của mình để ngủ với Mỹ, nhưng Minh để máu chảy lai láng trên tấm ra hồng, làm dơ chiếc giường của Tâm tức làm cho ô uế chiếc giường, nên tìm gặp gây gỗ với Minh, cô la Minh. Một hôm có một đám người Mỹ kéo đến quán để phản đối đã bị đám kỹ nữ của quán bar làm ăn lường gạt, Tâm lúc đó mới hiểu ra vì sao cô không có khách.

Truyện Đêm Nổi Lửa viết chuyện của ba kỹ nữ Lina, Bích, và Nga. được đưa tới bệnh viện để trị bịnh hoa liễu. Nhờ sự dẫn dắt của những bà sơ bệnh nhân trong bệnh viện sống như bị giam, phải đọc kinh trước khi ăn. Họ lên kế hoạch đốt bệnh viện và thành công bỏ trốn khỏi đó. Bích gặp lại Thoại, một người rất yêu cô nhưng cô không hề để ý, nay chán cuộc sống kĩ nữ của mình, Bích đã chấp nhận Thoại: “Tôi đứng sững lại, và như tôi nghĩ, Thoại cúi xuống bế xốc tôi lên đi qua cái cổng gỗ có dàn hoa leo, vào trong căn nhà của chàng. Tôi tự hỏi mình sẽ được ở đó được bao lâu?” (tr.124). Truyện cho thấy sự khác biệt giữa cuộc sống bên ngoài và cuộc sống tù túng và thánh thiện một cách giả tạo trong bệnh viện. Bên ngoài họ sống theo cơ hội, buông thả và dối trá trở nên chai lì. Bên trong bệnh viện, những người kĩ nữ đó phải che đi bộ mặt xấu xa đó và tập đọc kinh, làm những công việc thánh thiện giả tạo. Mà các sơ trong truyện cũng núp dưới lốt tu sĩ nhưng làm những công việc như cầm đồ và cho vay lấy lời. Các sơ này đâu khác gì những cô kĩ nữ ngoài đời, còn những cô kĩ nữ trong bệnh viện thì như những người Mỹ tìm đến người ma sơ, trả tiền cho họ, để đổi lấy một cái gì đó.

Qua 3 truyện ngắn này, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ đã chứng tỏ thành công khi dựng lên một bức tranh toàn diện về bộ mặt thật của một xã hội băng hoại thời chiến-tranh. Các cô gái ở đây chỉ biết sống cho hôm nay, và chửi thề nói tục, chua ngoa, ghen tương đến ấu đả nhau.

Tập truyện ngắn thứ ba Chiều Mênh Mông gồm Chiều Mênh Mông, Tiếng Hát, Lìa Sông, Trôi Sông, Đêm Tối Bao La và Cây Độc Không Trái. Chiều Mênh Mông là  "chân dung" một người tình nam: "Duy choàng tay qua đôi vai tôi, đôi môi chàng màu tro nặc mùi thuốc lá hờ hững đặt lên môi tôi... Tôi lách ra khỏi vòng tay ấy, ngoái lại nhìn chàng. Da mặt chàng trắng nhờn nhợt như da bụng con thằn lằn. Mắt chàng sần sùi và thở nặng như một tảng đá không còn làm da thịt tôi nháng lửa nữa. Đôi vai rộng và mông tròn của chàng ngày trước đã lôi cuốn sự chú ý của tôi..." (Trích từ Văn, số 98-99, 1-1-1968). Rồi Nhân, đã có vợ nhưng thích thú với những của lạ, của hoang như Phương, và cuối cùng lại phải trở về với người vợ 20 năm chung sống, “chới với trong buổi chiều mênh mông”! Phương thì từ khi người yêu chết trận, từ đau khổ đã đi đến những mối tình chớp nhoáng. Qua nhiều tay, nên khi có mang không biết ai là cha đứa bé.

Trong Trôi Sông, một ông già và một đào hát bội hết thời về cái xóm ngoại ô tỉnh Vĩnh Long hẩm hút cháo rau cho qua ngày đoạn tháng, cả hai có cùng một mẫu số chung là mơ ước có được những ngày cuối đời sung túc, thơ mộng như một giải mã cho ẩn ức gay gắt tới nứt nẻ suốt thời thanh xuân. Những khát vọng cháy bỏng không tưởng của họ   cuối truyện, hai nhân vật “trôi sông” kia vẫn không được định mệnh “hồi tâm,” ngoảnh lại, dành cho họ một nụ cười an ủi. Mà, khi hai chiếc đò nát gặp nhau, họ đã xáp lại như hai con thú cùng đường, động kinh. Để rồi trong một ảo giác chót cùng, ông già chết trên bụng bà đào hát bội hết thời. Như tiếng nấc hay lời nguyền rủa ai oán cuối cùng của những phần số bất hạnh: lão già đã cưỡi ngựa gió chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế sau buổi tối hành lạc mà sáng hôm sau bà mới biết, điên khùng la hét náo cả một vùng quê.

Đêm Tối Bao La (còn có tựa là Bà Điếc trong tuyển tập Ba Miền Mười Khuôn Mặt, 1966), Nguyễn Thị Thụy Vũ tả một thiếu nữ  mơ ước làm lại cuộc đời sau khi bị phụ tình. Cô phải phá thai nhưng vẫn khát khao một lần được làm mẹ! Trong ngôi nhà cổ kính của một gia đình địa chủ đang hồi suy sụp có cô gái già mập ú tên Linh ở chung với bà đầy tớ già điếc lác được gọi là "bà Điếc". Cha mẹ cô Linh đi làm ăn ở xa. Cô mòn mỏi đợi có người đến hỏi cưới, nhưng chẳng có anh chàng nào tình nguyện cho cô trao thân gửi phận Túng thé cô dan díu với một người đàn ông tên Duy xấu trai, gia thế và tung tích mơ hồ, tư cách và tâm địa chẳng có gì đặc sắc. Bên cạnh cô, bà Điếc sống náo nhiệt hơn cô với tâm tánh quái dị, với tình trạng dở điên dở khùng. Với thân phận tôi tớ không thể lấy chồng được, không có tiền ăn diện lại già nua xấu xí, cho nên bà Điếc dù rụng răng cũng tỏ ra mình văn minh tân thời như ai.Bà yêu một ông già có vợ, nhưng ông ta chỉ cặp xách bà qua đường mỗi khi từ dưới quê lên chợ tỉnh mua sắm Bà ảo giác thấy giữa ngày có ác thú hoặc cơn lụt lội hay cơn hỏa hoạn xảy đến. Có đêm bà thấy Linh bị kẻ lạ cưỡng bức. Kết cuộc câu chuyện, bà Điếc chết vì chứng xơ gan, còn Linh bị tên Duy tặng cho cái bầu, nên cô phải phá thai và dự định lên Sài Gòn để xa lánh cuộc sống hẩm hiu trong ngôi nhà quạnh vắng tại miền ngoại ô tỉnh lỵ.

“Anh Duy! Sau vụ phá thai, em sụt mất mười hai ký thịt. Em gầy gò, xanh xao. Đàn ông như anh là kẻ vô trách nhiệm. Anh chớ tưởng sức mấy mà em trả đũa chuyện anh bỏ em bô vơ với cái bào thai trong bụng được ba tháng. Đêm đêm, em giựt mình, có cảm tuởng mình là kẻ sát nhân. Mai sau xuống âm ti địa ngục, cũng riêng mình em chịu tội. Càng tội hơn là lúc đầu, em chẳng mảy may bị lương tâm cắn rứt.

Bà Bảy Điếc đã chết. Tới phút lâm chung, bà chịu rửa tội để về với Chúa. Lẽ nào, một cô gái trẻ như em ở bên lề cái thế giới âm hồn như vầy mãi sao anh? Bây giờ em chỉ còn hai lượng vàng và và cái máy may. Đợi cho đỏ da thắm thịt để che mắt thế gian, em sẽ tiếp tục may thuê cho thiên hạ. Đời em chưa hẳn tàn như cảnh chợ chiều. Em sẽ chắt mót từng đồng để tìm bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ. Em sẽ cho bơm cái ngực teo trở thành cái ngực vĩ đại, sẽ nhờ ông ta vá lại màn trinh. Để rồi anh xem. Em sẽ lấy chồng sĩ quan Thủ Đức. Nhứt định đời em chưa lâm vào ngõ bí đâu. Trả thù anh, chẳng lẽ em mướn du côn đánh anh. Em sẽ làm một người đàn bà phong nhã. Đôi lúc em còn mơ đi học hát để trở thành ca sĩ phòng trà.

Giờ đây thì em cô đơn quá. Ba má em trị cái tội lầm lỡ của em bằng thái độ hắt hủi, bỏ liều. Quần áo em giờ đây rộng phùng phình. Phải sửa sang lối ăn mặc, trang diện, em mới báo thù anh, cho anh sáng mắt ra là con Linh nầy không phải là thứ gái gặp chuyện rủi ro là đem nước mắt ra giải quyết.

Nhìn trẻ con lối xóm, em đau lòng. Phải chi anh chịu làm cha thì con chúng ta sẽ chường mặt với thế gian. Trời sẽ phat em. Mai sau dù có chồng đàng hoàng, em sẽ tuyệt tự. Em vốn hiền lành, nhân đạo, tại anh, tại anh đó, em mới làm kẻ sát nhân.

Em sẽ đi ra khỏi tỉnh nhà, chạy trốn ám ảnh quá khứ. Mùa nầy có ốc gạo và xoài tượng. Các bà mang bầu tha hồ ăn cho thỏa thích bù tới lúc nằm giường cữ chỉ ăn cơm trắng với cá kho khô. Bây giờ em bịnh hoạn, chẳng ăn gì ngon, lại ngủ không được. Nhắm mắt lại em thấy đứa nhỏ bò qua bò lại, nhe hai cái nướu trống trơn ra cười với em. Lại nữa hình ảnh bà Điếc ám ảnh em từng giây phút, ban đêm lẫn ban ngày. Biết đâu em sẽ là phản ảnh của bà sau nầy, điên cuồng vì khát vọng mà quên mất tuổi già.

Ôi! Em sẽ chết trong êm vắng, trong ám ảnh vầy vò chăng? Em phải đi, phải đi...”.

Tiếng Hát miêu tả cái bỡ ngỡ cô thiếu nữ lạc loài theo kiểu tha phương cầu thực. Tình cờ cô bở ngỡ bước vào xã hội văn nghệ sĩ thời thượng và chịu ăn nằm với một chàng du ca mà không thể nghĩ sự dan díu sẽ đi tới đâu sau cuộc làm tình không mấy hào hứng đó.

Trong Lìa Sông, thân phận của một cô giáo làng tự ví mình không bằng với nước mắm: “Em lo lắng lắm, không muốn dạy ở đây lâu hơn. Lật bật rồi đây học trò cũ có cháu nội cháu ngoại, mình phải làm bà cố bà cốc thì còn gì là đời em nữa. Nước mắm càng để lâu càng ngon, con gái để lâu như hũ mắm treo đầu giường, mà lại treo bằng loại chỉ rút ở thân cây chuối bẹ thơm thì thảm ghê gớm lắm! Nhiều khi nghĩ ngợi xa xôi, em ngáp ồn ào, chán đời nhưng không có can đảm cắt tóc đi tu”. Cuối truyện cũng tìm được tấm chống. Qua truyện ngắn Cây Độc Không Trái kể trong từng chi tiết chuyện cô gái bán bar đi phá thai cùng sự hối hận và lo lắng sẽ bị tuyệt tự, hết trái.

Lòng Trần còn có tựa là Muỗng Nước Mắm, là một truyện ngắn đặc-biệt. Trong phần nói về truyện ngắn Lòng Trần đăng trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta (Sóng, 1974), bà cho biết, truyện ngắn này ghi lại tám mươi phần trăm sự thật: “…Cô Năm Thàng là mẫu người quá khứ của ni cô Diệu Tâm, để cho người đọc thấy rõ là ni cô Diệu Tâm luôn mến tiếc thời vàng son của mình. Khi truyện nầy được đăng trên tạp san Văn thì các văn hữu gởi lời khuyến khích. Thật ra, ngay khi sáng tác, tôi không nghĩ rằng mình viết một truyện hàm chứa một vài tư tưởng Phật giáo trong quyển kinh Lăng Nghiêm, mà tôi chỉ thấy rằng cốt truyện có nhiều chi tiết ngộ nghĩnh, thế thôi.” (tr. 399). Cô Năm Thàng, một nghệ sĩ hát bội, một người bà con xa bên nội tác-giả. Cô Năm được một ông phú hộ bỏ ra phân nửa số ruộng đất của ông để chuộc cô ra khỏi gánh hát, đem về làm vợ. Chồng chết, cô Năm Thàng ở vậy, thủ tiết nuôi con. Mỗi khi đến ngày giỗ chồng, cô Năm lại nhập vai đào hát ngày xưa, với đầy đủ mũ mão, cân đai của sân khấu hát bội… Cô trang phục và biểu diễn những vai mà ông phú hộ từng say mê qua tài diễn xuất của cô. Sanh được đứa con nhưng bất hạnh xảy ra: “Ðứa con của cô được một năm thì bị một cơn sốt dữ mà tất cả danh y đều bó tay đầu hàng. Cô Năm tê điếng trong niềm tuyệt vọng. Ðã bao lần ý nghĩ tự sát chập chờn qua tâm nảo cô. Ba lần tự tử bằng ba cách: cắt gân máu, uống dầu nóng, treo cổ được phát giác ngay. Cô lần tính lại đã quá hai mươi năm, nỗi đau khổ và bất hạnh xa cũ đã bắt đầu mờ nhạt. Những việc nhà chùa làm cô bận rộn suốt năm bôi xóa dần những nỗi buồn thảm, tưởng chừng vẫn rỉ rả hành tội cô trong khoảng đời còn lại”.

“Ni cô chay lạt nâu sòng từ hồi còn nhỏ, nhưng đến khi chết, lại đòi uống một muỗng nước mắm...”: "Bà phải uống một muỗng nước mắm. Ngày mai dầu có phải đọc kinh sám hối, bà cũng không màng. Bà tin chắc rằng dầu đọc kinh cứu khổ cứu nạn với Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát cũng chưa chắc mầu nhiệm bằng một muỗng nước mắm. Nước mắm sẽ là một món thuốc tiên làm cho cây khô trổ bông. Cố gắng lấy hết tàn hơi, bà thều thào gọi chú tiểu kiếm cho bà một muỗng nước mắm. Tất cả những người có mặt bên giường đều ngạc nhiên lẫn hốt hoảng. Diệu Tâm lập đi lập lại mấy lần:

– Mô Phật! Cho tôi muỗng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.

Tiếng kêu gọi như một lời van vỉ, thê thảm. Hai tay Diệu Tâm chìa ra tuyệt vọng. Chú tiểu bưng đến gần tách trà ướp sen kề gần miệng. Ni cô khép chặt môi, lắc đầu phản đối:

– Tôi chỉ cần uống một chút nước mắm cho mặn môi.

Nói xong ni cô dìm hồn vào trong cơn đồng thiếp hai cánh tay còn xòe ra quờ quạng van xin”.

Lánh tục bằng cách nương náu chốn am vân chưa chắc là vì ngộ hoặc đã thoát! Và Nguyễn Thị Thụy Vũ đã tâm lý và hiện thực ở Lòng Trần hơn Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp của Hồ Hữu Tường – dĩ nhiên cho một tình cảnh tương cận mà có khác.

*

Về phần các truyện dài và tiểu-thuyết, trong Ngọn Pháo Bông (1968), Nguyễn Thị Thụy Vũ chuyển gần như nguyên văn các đối đáp của gái bán bar ngoài đời vào truyện, thí dụ như đoạn tả cảnh “ma cũ bắt nạt ma mới”: "Thắm nheo mắt châm chọc nhìn cô ả Khương. Nhan sắc như vầy mà dám vác mặt tới White Snow, chỗ hội họp của những người đẹp. Đã vậy nó còn dụ khị được tên Mẽo đi quân dịch nữa chứ. Từ hôm Khương về đây cô ả chưa thèm trình diện nàng. Đã vậy khi gặp nàng là ả phớt lờ, không coi nàng ra một gờ ram nào.

Vừa khi Khương định bước đi liền có tiếng gọi giật lại:

– Ê, con kia! Ở ngõ ngách nào tới đây?

Khương gượng cười:

– Tôi từ trên Phú Nhuận dọn về.

Thắm cười rũ và nhìn vào mặt ả:

– Ở đó gần Gò Vấp, Hạnh Thông Tây mà.

Biết Thắm ám chỉ mình là gái ăn sương hạng bét, chỉ chui rúc ở chỗ tối tăm nên Khương mím môi, nuốt nước miếng. Thắm đứng ưỡn ngực hách dịch hỏi: - Ê, ra nghề hồi nào?

Khương đáp cụt ngủn:

– Cũng gần mười năm rồi.

Thắm cười châm chọc:

– Ủa, té ra cũng chưa già tay ấn đó mà. Nè, cái con hỗn láo kia, mày biết bà cố này đây là ai không?

Thấy Thắm tấn công ồ ạt quá, Khương vội kéo kéo tên Mẽo đi một nước về phòng. Chưa đã cơn tức, Thắm nói với: -Muốn biết tao là ai thì mai này lên hỏi con Cúc ở phòng số 13. Trời ơi!Té ra em này chưa biết danh bà “Thắm Ngựa” chớ"... (Ngọn Pháo Bông).

Mô tả tâm trạng của một cô gái buôn hương bán phấn về chiều nhưng vẫn còn hấp dẫn đối với mấy anh lính Mỹ trẻ. Cô kiếm ra tiền song lại thích trai Việt và bị chúng bòn rút tiền. Cuối cùng, cô bị đâm chết trong căn apartment mà nhà chức trách không sao tìm ra thủ phạm. Ngôn-ngữ thì dung tục, thô lỗ đi theo lối sống của bọn gái điếm một khi sõi nghề thì trở nên bẩn thỉu, đàn áp bắt nạt ghen ghét, ganh đua nhau. Tác-giả đã dùng từ “ống cống” hiện thực các cô gái điếm.

Thú Hoang kể chuyện yêu đương của ba nữ sinh một trường công lập ở tỉnh nhỏ. Một cô bị nam sinh trường khác cưỡng dâm. Một cô thì lén lút với một nam sinh khác sở khanh, có thai và phải đi phá thai. Cô xưng “tôi” cũng vì cái không khí tỉnh nhỏ đã bỏ nhà lên Sài Gòn hy vọng tìm được một cuộc đời khá hơn, nhưng trên chuyến xe lên Sài-Gòn lại yếu lòng nghe lời ve vãn của một thanh niên và theo hắn. Như Thiên Đường Lạnh mô tả đời sống buồn tẻ của hai vợ chồng định cư trên cù lao sông Cổ Chiên gần chợ Vĩnh Long. Chồng dạy tiểu học, nghiêm túc yêu nghề nhưng rồi đâm ra chán nếp sống vô vị. Bà vợ là người đàn bà đảm đang, yêu thương chồng nhưng tính t́nh hay ghen tuông và khi nóng có thể hỗn hào. Người chồng tuy chán sống nơi “thiên đường” “lạnh lùng” nhưng tài cán không nhiều nên đến cuối vẫn hành nghề dạy trẻ nơi nửa quê nửa tỉnh này. Nhang Tàn Thắp Khuya là câu chuyện về một người vợ công dung ngôn hạnh gánh vác giang sơn nhà chồng thuộc hàng giàu có. Cũng vì lễ giáo mà phải dau khổ khi tình-yêu tình cờ đến với bà khi một người bạn của chồng đến nhà ở lại. Một con người hiền hòa, kín đáo và có phần yếu đuối, nhưng đã thu hút người vợ rồi từ cảm thông đưa đến tình cảm. Bà đau khổ từ chối lời tỏ tình của người này, cho nên vẫn yêu chồng nhưng không thể nguôi ngoai tình-yêu đó nay đã trở thành kỷ niệm.

Cho Trận Gió Kinh Thiên – là tiểu-thuyết cuối cùng được xuất-bản trước 1975, trận gió đây là để thổi vào một xóm lao động đủ loại người sang hèn và gốc gác, ở gần chợ Đũi, có đình Phú Thạnh, có quán nhậu, có đủ tứ đổ tường. Truyện mở đã cho thấy một bức tranh hiện thực sống động: “cánh cửa vừa mở, mùi ẩm mốc bốc lên. Nguyệt bước vào căn nhà sáng lờ mờ. Bà già đứng ngoài cửa nói vọng vào:

– Xóm này vui lắm, cô Hai à. Ở lâu rồi cô sẽ rõ. Bà con chòm xóm ở đây tốt lắm, như ở miệt vườn vậy.

Đồng hồ chậm rãi gõ mười tiếng. Bà Tư giựt mình:

-Ủa, gần tới giờ nấu cơm rồi. Hồi đêm qua, tôi ngồi đậu chến tới ba giờ sáng nên bây giờ hãy còn sật sừ...”

Lợi dụng mẹ bận niệm Phật và tưởng đâu bà Tư đã ngủ, cô con gái tên Lan đa dâm đem tình nhân về làm tình ồn ào ở ngoài bao lơn làm bà mẹ phải lên tiếng.

“Bà Tư bưng cây đèn Huê Kỳ đặt giữa bàn ăn trầu, cằn nhằn:

- Nhà có ván, có giường mà bây làm gì dắt nhau ra chỗ bàn Ông Thiên vậy hả ? Bây có biết chỗ đó là chỗ thờ phụng không?

Lan lẻo mép :

- Tui ra ngoài nầy cho mát.

Bà Tư the thé :

- Trời lạnh cắt ruột như vầy mà mầy còn hứng gió hả ?

Lan trả treo :

- Thì có nóng nảy trong người mới ra hóng gió chớ bộ.

Bà Tư nhấn mạnh:

- Con người ta phải biết chọn chỗ, chọn nơi, chớ có lý đâu nhè chỗ thờ Trời, thờ Đất mà ...

- Lan nói nhỏ :

- Má cứ tưởng tượng những chuyện dữ cho tui hoài.

- Bộ mầy tưởng con già nầy hễ nằm xuống là nhắm mắt, hả họng ngáy liền hay sao hử ? Mèn ơi, mỗi khi mình mở miệng niệm Phật ở trong nầy thì ở ngoải tụi nó làm đùng đùng như cù dậy.

Tới đây Lan cứng họng, nghẹn lời. Gã đàn ông chen vào:

- Thôi nhịn bả một chút đi em.

Bà Tư cắt lời :

- Ối con đĩ ... vợ Thằng Bố cứ leo lẻo cái miệng. Ý là con già đã thấy hết rồi.

Gã đàn ông rầy :

-Thôi nín đi em. Nói ra xấu thiếp hổ chàng.

Bà Tư rót nước súc miêng, têm miếng trầu rồi vặn đèn chong ngoài bao lơn, lên giọng phải quấy :

- Nè Tám, người ta có xe hơi nhà lầu, người ta mới sanh sứa vợ hai, vợ ba. Còn mầy tối ngày phải dẫn thây lên miệt Xuân Lộc làm tài xế mấy chiếc xe be chở cây về trại cưa miệt Bình Triệu. Cực khổ quá mạng mà tiền lương chưa đủ mua giấy cho con nít chùi đít. Tao thử hỏi, rủi con Lan mang bầu thì mầy có cạo đầu, bán quần áo nuôi đẻ cho nó không ?

Lan ngon lành:

- Làm giống gì mà phải mang bầu ?

- Thì làm đùng đùng như con cá sấu đập đuôi theo bánh lái ghe chài chớ còn làm giống gì nữa ?”.

Một cô gái khác tên Châu thì thay chồng vì tính mê cờ bạc. Một ông chồng già hấp hối, đứa cháu đến sòng tứ sắc báo tin thì bà vợ phải xong bàn tứ sắc mới chịu về nhà lo ma chay. Bà này có đứa em gái câm điếc vậy mà cũng bị dụ dỗ đến có thai, mà đến hai lần, và khi bà này chết không ai lo thì bà chị mê bài bạc vẫn tiếp tục đánh bài,...  Ngoài bài bạc, đàn bà con gái trong xóm còn “đua nhau” lấy Mỹ, ngoại tình, chạy theo tiền bạc,... Một “xã-hội” thời chiến thu nhỏ với đủ tình tiết sống sượng, tàn bạo!

Chiều Xuống Êm Đềm là truyện xảy ra vào những năm cuối thế kỷ XIX ở vùng Tiền-giang với nhân-vật chính là hai vợ chồng giàu có nhưng sống đơn độc buổi về già với ký vãng khó quên ở làng Đạo Thạnh tỉnh Mỹ Tho. Người chồng đã một đời vợ họ Lê thuộc gia tộc Lê Văn Khôi  con nuôi Tả quân, vì nổi loạn chống vua Minh Mạng, nên đã phải dùng thuốc độc tự vận để khỏi phải bị xử trảm ở pháp trường như những người khác. Trước đó người chồng này cũng đã chứng kiến cảnh một bà cô ruột trong chuyến đi thuyền từ Huế vào Nam, đã bị bọn chủ thuyền ném xuống biển cúng Hà-bá để biển lặng sóng yên mà tiếp tục hải trình. Ông tái hôn, được vợ sau yêu thương và có hai mặt con gái đã lập gia-đình mà chồng đều có địa vị cao sang, nhưng hai vết thương lòng đó cứ ám ảnh ông, khiến đời-sống hai vợ chồng già này cứ lo sợ lỡ số mệnh cướp đi một trong hai người, dù họ đang có một cuộc sống đầy đủ và êm đềm trong căn nhà cổ dĩ nhiên càng luôn gợi thời và người đã quá vãng. Tiểu-thuyết này sử-dụng chất liệu lịch-sử ở miền Nam cũng như truyện dài Khung Rêu.

Khung Rêu kể chuyện tang thương trong một gia đình địa chủ giàu sang tới hồi khánh kiệt, nhưng nó được lồng vào một thời đại nhiễu nhương, khi mà giai cấp địa chủ tới giai đoạn mạt điệp trong cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh. Tác giả lấy một bối cảnh nhỏ lồng vào một vấn đề lớn lao: cảnh ngộ biến suy dập vùi trên lớp sóng phế hưng, trên khúc quanh của thời cuộc, trong sự vận hành của lịch sử. Đây là lời trần tình của tác giả trong Thay Lời Tựa: “Từ hồi còn nhỏ tôi đã phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam (Cái thịnh mãn của hạng điền chủ ở miền Nam trước đây đã là tục ngữ...).

Tôi sanh ra và lớn lên trong một dòng dõi đã đến hồi ly tán. Cái họ của tôi gồm hai chữ có gạch nối có thể sẽ gợi lên những cảnh sống huy hoàng, vương giả của một thành phần xã hội trong trí nhớ ao tù của những ông già bà lão, những cảnh sống mà tôi chỉ nghe kể lại như một chuyện hoang đường trong những lần giỗ chạp.

Bây giờ chỉ còn lại một ngôi nhà thừa tự, cột kèo chạm trổ tinh vi đã mục rệu, và chẳng bao giờ lành những vết thẹo của chiến tranh không tha,những điền sản cò bay thẳng cánh chỉ biết đến qua một đống bằng khoáng vô dụng mà giấy đã ố vàng và dòn tan, một đám bà con xa gần chi chít, nhỏ nhen ích kỷ như sò hến và hoàn toàn vô tích sự.

Tâm lý của hạng ngươi này khá đặc biệt. Đó là những thằng chõng trôi giạt lềnh bềnh trên dòng sông hung tợn, một hạng người khư khư ôm lấy cái quá vãng vàng son (nát dậu cũng còn bờ tre), dở thầy dở thợ dở cu ly, bất lực trước sự biến đổi nhãn tiền của cảnh ngộ, bấu víu vào nhau mà sốngsót. Trong ngôi nhà thừa tự đó, mỗi người là một hòn đảo của những thói hư tật xấu... Có phải con người một khi đã mất thăng bằng trong cuộc sống vật chất thường để lộ ra rõ rệt hơn bao giờ hết những xấu xa tàn tệ của mình? Và một giai cấp cũng vậy.

Khi khởi công quyển truyện này, tôi đặt trước cho tôi một chủ định: ghi lại cái ám ảnh từ thời nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa, giải tỏa nó cho xong...”(bản Cửu Long, 1990, tr. 5-6). Ấn bản trước 1975 ở đoạn đầu có thêm “Nguyên nhân chánh của sự suy sụp bệ rạc này thì ai cũng biết: chiến tranh. Một cuộc chiến tranh dằng dai hai mươi lăm năm, khoảng thời gian gần bằng số tuổi của tôi”.

Nguyễn Thị Thụy Vũ viết về gia đình mình qua hai thế hệ trước bà. Ông Phủ là một bậc đường quan và điền chủ giàu có, nay dù ông đã hưu trí và phần lớn đất đai của ông trong vùng Việt Minh và bị sung công. Bà Phủ đã có một đời chồng trước khi kết hôn với ông, bà khéo ăn ở và xử sự với ba người con riêng của chồng và lại đảm đang việc gia-đình. Nhưng các con ông Phủ mỗi người một cá tính: trưởng nam tên Canh ăn chơi chỉ mong cha chia gia tài sớm, thứ nam tên Thụ thì theo kháng chiến chống Pháp, còn Tường cậu út thì lười biếng và dễ tin người ngoài. Ông Phủ cuỡng hiếp Ngà là cô tớ gái đến mang thai; khi bị tiết lộ, bà Phủ dàn xếp cho Mọt một ít ruộng đất để y ta cưới Ngà nhưng ông Phủ không thuận. Cho nên bà Phù giận dọn ra ở riêng, vẫn ở trong khuôn viên nhà và bà không màng đến việc trong nhà nữa. Ông Phủ bị hất hủi và chết vì đứng tim. Ngà sinh con nhưng không nuôi được tính trở về quê và trở lại với Đực, anh chàng nông phu từng cưỡng hiếp Ngà, nhưng chưa về thì Ngà cặp với một anh chàng lính kín rồi bỏ nhà theo tình nhân. Cậu Tường thì theo đuổi Ngự là cô gái thích xa hoa và cuối cùng Ngự mang thai, hai người rủ nhau bỏ nhà đi trốn nhưng không phương tiện sống cuối cùng trở về lại nhà.

Truyện kết thúc ở thời điểm chiến tranh chấm dứt, mười năm sau. Khung Rêu là chuyện gia đình ông Phủ với nhiều nhân-vật và tình huống, nhiều nhưng Nguyễn Thị Thụy Vũ đã thành công viết lại gia phả một gia-đình bằng cách phác họa đời-sống trong từng chi tiết về con người, tâm lý và cách xử sự, lời nói, của nhiều giai cấp xã-hội, điền chủ, tá điền, người siêng làm, kẻ ăn chơi, thích xa hoa, vô trách nhiệm với đất nước. Vài chi tiết như nhân-vật Ngà ở đợ bị ông chủ cưỡng hiếp, đã không căm thù mà hình như tỏ ra thích thú làm giường tạo dịp để được tiếp tục gần ông ta người “đã đem cho cô khoái lạc về thể xác lần đầu tiên cô sống với nó” đến mang thai. Ông Phủ “bây giờ, bỗng dưng một chút rạo rực gì đó mọc lên trên nắm xương thịt bắt đầu tàn tạ của ông, để ông thông gian cùng Ngà... Có phải vì một nỗi thất vọng về con cái mà ông lại xoay qua tìm một cảm giác mới bên thân thể tràn trề nhựa sống của người tớ gái?” (bản Cửu Long, 1990, tr. 114).

Ngôn ngữ tiểu-thuyết của Nguyễn Thị Thụy Vũ sinh động và trực tiếp khi kể đủ chuyện: gái bán bar bị lính Mỹ hành hạ thể xác, lính Mỹ biểu tình chống "Sàigòn-tea" tại vài đường phố Sàigòn để phản đối chủ các bar “chém” quá nặng, gái bán bar lường gạt lính Mỹ, coi lén người khác tắm, đi phá thai, bị bệnh hoa liễu, gái mới nhập môn học các ngón nghề của bậc đàn chị, trong nghệ thuật bán bar, và đôi khi đi khách như một gái hạng khá đắt tiền. Nói chung nhân-vật của Nguyễn Thị Thụy Vũ bình dân, không màu mè nhưng chân thật dù ở vào tầng lớp xã-hội nào. dùng ngôn ngữ nói hàng ngày, tương đối trực tả mọi sự,  là tục hay nhã, ghi nhận sự việc và ngôn ngữ trung thực như một ký giả đi làm phóng sự. Nguyễn Thị Thụy Vũ chân thật, hiện thực-như-thật (trong một phỏng vấn, bà nói là 70% sự thật), khi viết về một giới với sự thông cảm, thương người hơn là phê phán kiểu đạo đức giả – cũng như khi bà viết về một số nhân-vật thuộc gia-đình, họ hàng.


NGUYỄN VY KHANH