Wednesday, February 9, 2022

2303. THỤY KHUÊ Tự Lực Văn Đoàn - Văn Học Và Cách Mạng (47)



Nhất Linh, ngày trở về

I- Hương Cảng

Từ Côn Minh đến Hương Cảng

Nguyễn Tường Tam, sau khi từ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Liên hiệp, sang Côn Minh tháng 6-1946. Tại hải ngoại, ông không ngừng hoạt động.

Tình hình Quốc Dân Đảng lúc đó gần như tuyệt vọng: ở trong nước bị cả Pháp lẫn Việt Minh lùng bắt, phải lui vào bí mật. Ở ngoài nước, trông vào sự trợ giúp của Tưởng Giới Thạch, nhưng chính phủ Trùng Khánh, đã dời đô lên Nam Kinh từ tháng 5-1946, bắt đầu nao núng trước sức mạnh của Hồng quân. Trước tình thế ấy, những người Việt Quốc lưu vong có thể làm gì? Nguyễn Tường Bách viết:

"Việc cần làm trước hết, là tổ chức lại Hải Ngoại Bộ thành cơ cấu lãnh đạo ở ngoài nước để gây lại các cơ sở địa phương và tiến hành công tác ngoại vận. Trong tình thế này, không còn con đường nào khác để dọn lối trở lại Việt Nam, anh Tam giữ chức vụ chủ nhiệm, phần ngoại vụ do anh Long, phần tổ chức do tôi giữ và kinh tài do anh Xuân Tùng phụ trách (…)

Chúng tôi đã gặp các nhà chức trách ở đây mấy lần, và được nghe không ít hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng chỉ không tới nửa năm sau, sau khi đã tiến chiếm Diên An và ăn mừng thắng lợi, binh đoàn Hồ Tông Nam đã bị Cộng quân xơi gọn từng miếng – hai trăm ngàn quân Q.D.Đ đã bị bốn mươi ngàn quân CS đánh cho đại bại và khi rút chạy đã không còn một nửa quân số!"[1]

Về cơ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Côn Minh, Nguyễn Tường Bách mô tả:

"Chúng tôi mướn một căn phòng ở ngoại thành, khu gọi là Phục Hưng Tân Thôn, phía Tây thành phố. Nhà rộng, có gác, đủ cả phòng họp và phòng ngủ, nằm bên con đường đi Đại Quan Lâu, một thắng cảnh ở đây. Hai bên đường trồng thông và cây bạch hoa cao vút. Khi họa sĩ Nguyễn Tường Lân (trùng tên với Thạch Lam) còn ở đây, anh thường vác giá gỗ ra phác họa cây bạch hoa. Sau này, anh về nước lúc nào tôi cũng không biết; chỉ nghe nói là khi bước chân xuống sân bay Gia Lâm, thì bị Việt Minh bắt, không rõ tung tích ra sao"[2].

Nguyễn Tường Bách ở lại Côn Minh, cuối năm 1946, kết hôn với Hứa Bảo Liên, đã quen nhau từ Hà Nội.

Kể từ tháng 8-1946, Lưu Đức Trung liên lạc thường xuyên với Nguyễn Tường Tam, viết thư mời anh em Nguyễn Tường lên Nam Kinh, để bàn tính việc thành lập một tổ chức quốc gia ở hải ngoại. Nguyễn Tường Tam rời Côn Minh ngày 30-11-1946[3], tới Nam Kinh, ngày 3-12-46, gặp Nguyễn Hải Thần, Trần Văn Tuyên, Tạ Nguyên Minh… Ngày 5-12-46, trong buổi họp lớn tại Nam Kinh, Nguyễn Tường Tam tường trình thái độ của Quốc Dân Đảng kể từ Hội nghị Đà Lạt đến lúc ông chạy ra ngoại quốc, và mục đích của ông lên Nam Kinh, sau cùng ông đề nghị các tổ chức quốc gia xoá bỏ mọi khác biệt quá khứ, ngồi lại với nhau thành một khối có tổ chức chặt chẽ để làm việc"[4].

Nguyễn Tường Tam liên lạc với các đoàn thể hải ngoại và trong nước để thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Tối 20-2-1947, tại Thượng Hải, các đại biểu ký kết văn kiện thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc.

Thành lập xong Mặt trận, Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần trở về Quảng Châu. Từ đó các hoạt động của Mặt trận phát xuất từ Trung ương ở Quảng Châu[5].

Cùng thời gian đó, ngày 2-2-47, Bảo Đại phái Trần Trọng Kim, Đinh Xuân Quảng, Phan Huy Đán về Sài Gòn xem xét tình hình, đồng thời Cựu hoàng viết thư cho Lưu Đức Trung và nhóm Thượng Hải, ngỏ ý muốn triệu tập tất cả mọi người về Hương Cảng, trong thư có câu:

"Tôi cũng đã ngỏ ý nói cụ Nguyễn [Hải Thần] và anh [Nguyễn Tường] Tam về. Hết thảy nên tụ tập lại một nơi, phân công ra mà làm việc".

Như vậy, việc triệu tập mọi người về Hương Cảng là chủ ý của Bảo Đại từ tháng 2 năm 47, đến tháng 9 năm 47 mới thực hiện được.

Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Tường Long sang Hương Cảng trước tháng 7-47, Nguyễn Tường Bách được gọi sang sau"[6].

Trước đó, khi Nguyễn Tường Tam quyết định ủng hộ giải pháp Bảo Đại [đứng ra điều đình với Pháp], ông có viết thư báo cho Hải ngoại bộ ở Côn Minh[7], Nguyễn Tường Bách ghi lại phản ứng các đồng chí ở Côn Minh như sau:

"Bức thư mật của anh Tam gửi về Hải Ngoại Bộ khiến cho tôi đầu bỗng nóng lên, hãm vào mấy phút trầm tư. Chưa bao giờ tôi cảm thấy bối rối như vậy. Vì, dù có đưa ra những đòi hỏi như trên [Yêu cầu Pháp trả lại độc lập cho Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển Việt Quốc], thực chất như thế là ta sẽ hợp tác với Pháp và sẽ phải đối đầu với quốc dân đương đổ máu để kháng chiến, dù chính phủ Hồ Chí Minh do đảng Cộng Sản lãnh đạo.

Chiến sĩ cách mệnh chống thực dân nay lại bắt tay với chính thực dân? Thực khó mà chấp nhận? Song còn có đường nào khác để đi?"[8]

Đây là lần thứ hai, Nguyễn Tường Bách nói lên thế kẹt của Quốc Dân Đảng. Lần thứ nhất, khi ông lên chiến khu Vĩnh Yên, phải đánh nhau với Việt Minh, ông đã viết:

"Lần đầu tiên trong đời, tôi tham gia vào một cuộc chiến tranh. Nhưng từ trước đến nay tôi không bao giờ ngờ được lại đánh nhau giữa người Việt Nam với nhau, trong lúc đáng lẽ phải đánh nhau với thực dân Pháp. Theo ý nguyện của tôi và nhiều anh em thanh niên lúc đó, mục đích chính là chống Pháp. Nhưng thời cục đã đưa đẩy như thế. Vì thành kiến và vì thù hận đảng phái, cũng không còn có con đường nào khác"[9].

Đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng, việc Bảo Đại điều đình với Pháp, không khác gì việc Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Pháp cách đấy mấy tháng, mà họ đã cực lực phản đối. Nguyễn Tường Bách bèn liên lạc với Xuân Tùng, Vũ Hồng Khanh, là hai lãnh đạo ở Vân Nam. Hai người này cũng thấy rất khó xử. Một đảng viên kỳ cựu hỏi thẳng: "Như thế có phải là chủ trương hợp tác với Pháp không? Có phải là đầu hàng không?"[10]. Cuối cùng, Vũ Hồng Khanh đã dè dặt nhận lời. Có lẽ vì vậy, nên khi Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long và Nguyễn Hải Thần đi dự hội nghị Hương Cảng, họ không được toàn thể ủng hộ, nên đã không ký vào bản tuyên ngôn chung. Lập trường của Nguyễn Hải Thần được Nguyễn Tường Bách ghi lại như sau:

"Trong một ngày gần cuối, chúng tôi gặp cụ Nguyễn Hải Thần. Lúc này mắt cụ đã kém, nhưng lập trường vẫn vững cùng chúng tôi, cụ cảm thấy mình không có hậu thuẫn mạnh, nếu về nước, cũng sẽ chỉ là con bài trong tay Pháp:

Bọn Pháp lúc này thấy cần phải lợi dụng tên tuổi của mình để lôi cuốn dân chúng chống lại Việt Minh (…) Tôi nghĩ, không thể chấp nhận những điều kiện của Bollaert, người ta sẽ cho mình là đầu hàng Pháp" rồi cụ chép miệng: "Dù sao, từ trước tới nay chúng ta đã là chống Pháp, nay lại đi với Pháp là mất chính nghiã."

Chúng tôi tỏ ý đồng tình với cụ, và sẽ không ký vào bản tuyên ngôn. Sau đó cụ trở về Quảng Châu trú ngụ. Chính phủ Trung Cộng sau này có lẽ vì thấy cụ là một nhà ái quốc can trường, với lại cũng không có hại gì cho họ, nên đã cung cấp nhà ở và một số tiền sinh hoạt, con cái cũng được đi học và đi làm. Cụ mất năm 1957 ở Quảng Châu."[11]

Hội nghị Hương Cảng

Hội nghị Hương Cảng bắt đầu họp từ ngày 9-9-1947, và kết thúc một tuần sau đó. Do Nguyễn Hải Thần chủ tọa, Cung Giũ Nguyên thư ký, Lưu Đức Trung làm phát ngôn viên của Bảo Đại.

Có khoảng 30 đại biểu của trên 15 tổ chức trong và ngoài nước tham dự. Trong đó có những chính khách tên tuổi, sau này sẽ đóng các vai trò quan trọng trên chính trường quốc gia, như: Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Phan Khắc Sửu, Cung Giũ Nguyên, Trương Vĩnh Tống, Nghiêm Xuân Nam, Nghiêm Xuân Việt, Trần Văn Liễu, Phan Văn Giáo, Trần Đình Quế, Nguyễn Bảo Toàn, Trần Văn Tuyên, Vũ Kim Thành, v.v.

Nguyễn Khăc Ngữ viết:

"Hội nghị chia thành 2 phe:

Phe Mặt trận Quốc Gia Thống nhất Toàn quốc chủ trương không hợp tác với Pháp và chỉ hợp tác với Chính phủ Bảo Đại khi Pháp trao trả độc lập và thống nhất cho Chính phủ này.

Một số các đảng phái ở trong nước chủ trương cứ để Bảo Đại đứng ra điều đình với Pháp và lập Chính phủ Quốc gia rồi các điều kiện sẽ tranh đấu sau"[12].

Chương trình nghị sự: bàn về vai trò của các đảng phái Quốc gia trong việc điều đình với Pháp và thảo luận đề nghị sau đây của Pháp:

"Trong đề nghị này, Bollaert yêu cầu Bảo Đại và các đảng phái Quốc gia về nước, Pháp sẽ giúp phương tiện và khí giới để đánh Việt Minh.

Hội nghị đã tức khắc bãi bỏ đề nghị này vì rằng nếu đã về nước thì phải đánh Pháp mới có chính nghiã chứ nếu về làm tay sai cho Pháp thì sẽ bị mang tiếng xấu và sẽ chẳng còn làm gì được nữa.

Tuy nhiên đa số các đại biểu các đảng phái Quốc gia cũng đồng ý tiếp tục hậu thuẫn cho Bảo Đại để ông điều đình với Pháp để đòi được hoàn toàn độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp với các điều kiện: Chính phủ Việt Nam Quốc gia sẽ có quân đội riêng, tài chính riêng; có quyền ngoại giao với các nước trên thế giới, v.v."[13].

Chính sách mới của Pháp, được triển khai trong bài diễn văn của Bollaert, cũng được đưa ra thảo luận, Nguyễn Khắc Ngữ ghi lại theo tài liệu của Lưu Đức Trung, như sau:

"Trong thời gian Hội nghị đang họp, ngày 10-9-1947, Bollaert đọc ở Hà Đông một bài diễn văn nói về chính sách mới của Pháp ở Đông Dương.

Trong diễn văn này, ông nói rõ chính sách mới của Pháp về vấn đề Đông Dương:

* Pháp chấp nhận để Việt Nam được tự trị (ông không nói gì đến hai chữ độc lập) trong khối Liên Hiệp Pháp.

* Pháp công nhận sự thống nhất của nước Việt Nam qua một cuộc trưng cầu dân ý của dân chúng Nam kỳ.

* Việt Nam sẽ có chính phủ riêng với các bộ chuyên môn của họ.

* Pháp sẽ chịu trách nhiệm về việc quốc phòng, ngoại giao và làm trọng tài giữa Việt nam và các nước Lào, Mên.

Hội nghị đã đem bài diễn văn này ra mổ xẻ và đã bác bỏ ngay những đề nghị trên của Bollaert."[14]

Hội nghị biểu quyết một kiến nghị gửi cho Bảo Đại, trong đó viết:

"Đại biểu các đoàn thể Chính trị, Tôn giáo, Văn hóa và Kháng chiến Việt nam họp tại Hương cảng đồng thanh tuyên bố:

Những đề nghị chính thức của Pháp không đáp ứng với những đòi hỏi chính đáng của dân tộc Việt nam và không thể đưa đến một nền hòa bình vĩnh cửu.

Hội nghị tái xác nhận lòng tin tưởng hoàn toàn vào Cựu Hoàng Bảo Đại, người duy nhất xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt nam.

Hội nghị thỉnh cầu Ngài đứng ra lãnh đạo dân tộc Việt nam để cùng người Pháp tìm lấy một giải pháp giải quyết những vấn đề Việt Pháp trên căn bản bình đẳng công lý"[15].

Đáp lại thỉnh cầu này, ngày 18-9-1947, Bảo Đại công bố một bản Tuyên ngôn, với những ý chính sau đây:

"…Trong lúc tuyệt vọng, đồng bào đã hướng về Trẫm, kêu gọi uy quyền của Trẫm, để mang lại cho đất nước bị tàn phá vì chiến tranh và bị sâu xé vì chia rẽ, một nền hoà bình xứng đáng với một đất nước tự do, bình đẳng, một nền hoà bình nội bộ trong an toàn.

Đồng bào yêu cầu Trẫm nhân danh đồng bào điều đình với nước Pháp, qua vị đại diện cao cấp của họ ở Việt Nam, Cao uỷ Bollaert (…)

Đáp lại lời kêu gọi đó, Trẫm chấp nhận trách nhiệm mà đồng bào giao phó, và sẵn sàng liên lạc với nhà cầm quyền Pháp. Với họ, Trẫm sẽ khách quan xem xét các đề nghị mà họ đã đưa ra".[16]

Theo Tuyên ngôn trên thì Bảo Đại không nói gì đến sự bãi bỏ hay chấp nhận đề nghị của Bollaert trong bài diễn văn ở Hà Đông nhưng chỉ nhận sẽ đứng ra điều đình với Pháp mà thôi.

Sau khi tuyên ngôn của Bảo Đại được công bố ngày 18-9-1947, ngày 19-9-1947, Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc ra thông cáo bác bỏ đề nghị của Bollaert nhưng xác nhận lòng tin tưởng hoàn toàn vào Bảo Đại và kêu gọi đồng bào hãy xiết chặt hàng ngũ, tiếp tục tranh đấu cho độc lập và thống nhất".[17]

Nhiều đảng phái quốc gia trong nước gửi điện văn ủng hộ Bảo Đại và bản tuyên ngôn 18-9-1947 của Cựu hoàng.

Việt Nam Quốc Dân Đảng phát truyền đơn phản đối việc thoả hiệp với Pháp.

Phải khách quan mà nhận rằng: Quan điểm của chính phủ Pháp đã có ít nhiều thay đổi: kể từ ngày 22-1-1947, Paul Ramadier lên làm Thủ tướng. D’Argenlieu bị gọi về Pháp. Ngày 5-3-1947, Emile Bollaert lên thay thế, ngày 1-4-47, Bollaert đến Sài Gòn với một quyền lực lớn: đặc trách an ninh, quốc phòng và là đại diện trực tiếp của chính phủ Pháp tại Đông dương, cùng với một "chính sách mới", gồm những điểm chính sau đây:

Những quyền lợi tinh thần và vật chất của Pháp ở Đông Dương là bất di bất dịch. Không cần bàn cãi. Pháp chủ yếu giữ gìn và tự do phát triển ảnh hưởng văn hoá và quyền lợi kinh tế của nước Pháp; bảo vệ các sắc dân thiểu số đã tin cậy vào nước Pháp. Pháp không chủ trương duy trì chính sách thuộc địa như ngày xưa, cũng không chống lại những đòi hỏi độc lập thống nhất 3 xứ của người Việt, nhưng căn cứ vào những điểm căn bản của hiệp định Sơ bộ 6-3-1946. Hiệp định này "đã bị Việt Minh xâm phạm" ngày 19-12-1946 [ngày toàn quốc kháng chiến]. Trong sự thử thách bằng võ lực, chúng ta [Pháp] đã thắng thế rõ ràng. Song song với hành động quân sự, chúng ta [Pháp] đưa ra hành động chính trị, để cho người Việt biết chúng ta không còn muốn trở lại tình trạng trước ngày 9-3-1945 [ngày Nhật đảo chính Pháp] và thành thực để cho người Việt điều khiển xứ sở của họ. Nếu người Việt muốn thành lập một chính phủ lâm thời, chúng ta [Pháp] coi là một tiến bộ. Chính phủ này phải loại bỏ các phần tử Việt Minh[18].

Xin nhắc lại vài mốc lịch sử tiếp theo đó:

- Ngày 6-12-1947, Cựu hoàng Bảo Đại gặp Bollaert lần đầu trên chiến hạm ở vịnh Hạ Long.

- Bảo Đại hội đàm với Bollaert tại Genève từ 7-1-1948 đến 12-1-48.

- Ngày 30-1-48, Bollaert tuyên bố tại Sài Gòn: Pháp không điều đình với Hồ Chí Minh nữa.

- Ngày 5-3-48, Cựu hoàng từ Genève trở về Hồng Kông.

- Ngày 2-6-48, chính phủ Nguyễn Văn Xuân được thành lập.

- Ngày 5-6-48, hiệp ước vịnh Hạ Long được công bố: "Pháp long trọng thừa nhận Việt Nam độc lập và thống nhất. Việt Nam tuyên bố gia nhập khối Liên Hiệp Pháp"[19].

Trong thời gian này, hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng hầu như tê liệt. Nguyễn Tường Tam ở vào địa vị khó xử, tương tự như lúc ông cầm đầu phái đoàn Việt Nam đi dự Hội nghị Đà Lạt. Nguyễn Tường Bách trình bày khá rõ tình trạng này:

"Theo đúng nguyên tắc đoàn kết dân tộc chống xâm lăng, thì cần đoàn kết với Việt Minh để kháng chiến, vì lúc đó chính phủ Hồ Chí Minh đương cầm đầu cuộc chiến chống Pháp. Nhưng chủ trương của CSVN là tiêu diệt hoặc chi phối hoàn toàn các phái khác với mình phải thần phục họ, nên đoàn kết không thể thực hiện được. Một mặt, nếu cùng với Bảo Đại đi vào con đường hợp tác với Pháp để chống lại Việt Minh đừng kháng chiến, thì tất sẽ rơi vào chỗ phản lại dân tộc, và bị dân chúng ruồng bỏ".[20]

Theo Nguyễn Tường Bách, sau khi hội ý với Xuân Tùng và Vũ Hồng Khanh ở Vân Nam, Vũ Văn Đức ở Quảng Tây và một số đại diện những lực lượng bí mật ở trong nước ra, đại đa số Quốc Dân Đảng đều đồng ý không thể thoả thuận với Pháp được. Và họ chủ trương "tạm thời chỉnh đốn hàng ngũ để đợi một cơ hội tốt hơn". Nguyễn Tường Bách viết:

"Một mặt, dù có một vài anh em chủ trương hợp tác với Việt Minh để thúc đẩy việc giải phóng dân tộc trước hết, nhưng mọi người đều thấy phải kháng chiến, nhưng không thể đi với Cộng sản được (…)

Từ đó về sau, ở ngoài nước, chúng tôi không còn liên lạc với Cựu hoàng Bảo Đại và những người đi theo ông.

Chúng tôi trở về Quảng Châu, vẫn ngụ tại gian nhà nhỏ trong ngõ Hoàng Xá. Ở đây còn có anh Đỗ Đình Đạo và mấy anh em từ Vân Nam sang hay từ Quảng Tây tới"[21].

Cuộc sống ở Quảng Châu

Hội nghị Hương Cảng chấm dứt, tất cả trở về ngõ Hoàng Xá, căn cứ Quốc Dân Đảng ở Quảng Châu. Nguyễn Tường Bách kể lại những "giây phút êm đềm" đi dạo bờ Châu Giang, trèo lên núi đồi ngoại thành hoặc đi bơi tại Lệ Chi Loan:

"Buổi chiều, sau bữa cơm, ra ngoài hiên hóng mát ngay trước cửa nhà. Anh Tam mang cái kèn hắc quản (clarinette) ra thổi, những bản nhạc du dương như Khúc Mộng Ảo, Dạ Khúc hay những bản nhạc Việt Nam mà anh thích như Con Thuyền Không Bến, Biệt Ly… nghe não ruột, lôi cuốn những người láng giềng chất phác bắc ghế ra ngoài cửa nghe. Có lẽ họ chưa được nghe âm nhạc réo rắt nhưng lạ tai như thế bao giờ. Và họ cũng ngơ ngác, không hiểu tại sao lại có mấy người ngoại quốc này đến đây làm gì.

Song hấp dẫn hơn đối với họ, có lẽ là mấy bài anh [Đỗ Đình] Đạo thổi. Phải công nhận là anh Đạo thổi hay hơn anh Tam trong gia đình anh Đạo nhiều người có khiếu về âm nhạc, mà anh lại chơi những bản quen thuộc hơn như Lưu Thuỷ Hành Vân, nhất là bài "Tô Vũ Mục Dương" du dương mà người ở đây, hầu hết đều biết. (…)

Đầu năm 1948, tất cả dọn sang Bạch Hạc Động, một làng bên kia sông. Chỗ này có hai trường trung học có tiếng, có cả giáo viên người Anh, Mỹ, và có ca nô chở tới Sa Diện.

Chúng tôi thuê một căn nhà trong làng, gần chợ, tiện mua bán, nấu ăn.

Hồi đó, có lẽ vì mệt mỏi, anh Tam mắc chứng suy nhược thần kinh, hay mất ngủ, lo âu, nên hoàn cảnh ở đây yên tĩnh, rất thích hợp. Trong khi chờ đợi anh em các nơi tới họp, chúng tôi lợi dụng thời giờ để đọc sách, nghiên cứu về mọi mặt xã hội, chính trị, trau dồi thêm kiến thức cần thiết cho hoạt động. (…)

Thất bại, lưu vong, bế tắc… Không khỏi đưa tới bàng hoàng, thất vọng, nhưng chúng tôi vẫn lạc quan, vẫn cố gắng theo đuổi công cuộc, và tìm thấy thú vui trong đời sống"[22].

Căn nhà ở Hương Cảng

Căn nhà này họa sĩ Nguyễn Gia Trí đứng tên thuê. Ông là thành viên xây dựng Tự Lực văn đoàn và đảng Hưng Việt[23]. Nguyễn Gia Trí và Trương Bảo Sơn, thuộc nhóm lưu vong Thượng Hải, dọn xuống Hồng Kông, khi Bảo Đại triệu tập hội nghị Hương Cảng. Trương Bảo Sơn viết:

"Ông Nguyễn Gia Trí và tôi từ Thượng Hải xuống Hồng Kông vào khoảng tháng 9-1947, được hai anh em ông Võ Văn Hải (sau là bí thư của ông Diệm) và Võ Văn Lăng [tức họa sĩ Võ Lăng, sau sống ở Pháp] mướn cho một gian lều vách ván, lợp giấy bồi, sơn hắc ín, không điện, không nước ở lưng chừng một ngọn núi đá, trông sang trường đua ngựa Happy Valley. Hàng ngày hai ông này còn đem cơm cho chúng tôi, cho tới khi chúng tôi kiếm được sinh kế. Ông Trí lo vẽ tranh, tôi đi kiếm việc làm và đã được tuyển vào một công ty hàng hải của Hoà Lan. Năm 1948, vợ [bà Nguyễn Thị Vinh, sau này sẽ trở thành nhà văn] và con tôi [Trương Kim Anh] lúc đó mới ba tuổi đã bắt được liên lạc với tôi và từ Hà Nội đã sang ở với chúng tôi.

Sau khi hội nghị Hồng Kông tan rã, căn lều lại có thêm ông Đỗ Đình Đạo, nguyên tư lệnh chiến khu ba của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Nhất Linh Nguyễn Tường Tam tới ở chung. Ngay sau lều có một hộc đá, rộng mỗi bề khoảng năm mét, ông Tam đã thu dọn ngủ trong đó. (…) Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và Đỗ Đình Đạo hàng ngày họa clarinette với nhau ở trước cửa động"[24].

Như vậy, Nguyễn Tường Tam và Đỗ Đình Đạo, sau Bạch Hạc Động đã dọn ra Hương Cảng, Căn nhà lều ở Hương Cảng, trên sườn đồi gần trường đua ngựa Happy Valley, trong hồ sơ công an Anh được ghi là nhà của Nguyễn Gia Trí. Nhà này cũng là trụ sở của Quốc Dân Đảng ở Hồng Kông, là nơi đi về của các nhà lãnh đạo như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Long, Đỗ Đình Đạo… giữa Hồng Kông và Bạch Hạc Động.

Căn nhà này được Nguyễn Thị Vinh mô tả rất nên thơ, là nơi nhà văn Nhất Linh và họa sĩ Nguyễn Gia Trí, từng sống và sáng tác, trong 5 năm, từ tháng 9-1947 đến năm 1952, khi Nguyễn Gia Trí và gia đình Trương Bảo Sơn về nước.

Cũng tại căn nhà này, tháng 11-1947, công an Anh đã tìm được "những tài liệu chứng tỏ nhóm này chủ trương bí mật sử dụng Bảo Đại và tính việc lật đổ Bảo Đại để thiết lập chính phủ cộng hoà", như chúng ta đã thấy trong chương trước.

Nguyễn Gia Trí vẽ tranh ở Hương Cảng

Trương Bảo Sơn kể lại:

"Ba tháng sau khi tới Hồng Kông, tôi được tuyển vào làm tại một hãng hàng hải Hòa Lan. Tôi cùng Nguyễn Gia Trí thành lập chi bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng Hồng Kông và xuất bản một tờ nội san. Nhờ được anh Nguyễn Khải Hoàn đem cho anh một thùng sơn son và một thùng sơn ta, loại sơn hay "ăn" da tay da mặt những người dễ bị dị ứng, lập tức anh vẽ phác nhiều bức và mua ván ép về bó sơn, bó vải, tích trữ vỏ trứng, vàng quý anh mang theo khi xuất ngoại tạm đủ dùng.

Anh giảng cho tôi biết tại sao tranh sơn mài của anh dù có ngâm xuống giếng nước hàng nhiều năm vẫn bền màu, gỗ không cong, không nứt. Những nét vẽ bằng vỏ trứng, nhất là bằng vàng mắc giá, phải phết son làm sao để khi mài sơn sẽ nổi lên theo ý muốn của hoạ sĩ. Sơn phải mài công phu tỷ mỷ và khéo léo như thế nào để toàn thể mặt tranh bằng phẳng, nhẵn thín, không một vết gợn, vết nhăn. Anh đã đem mấy bức ra triển lãm cùng với những bản phác hoạ, đã được đông người ngoại quốc đến tham dự và thưởng thức. Họ xì xầm bàn tán với nhau; họ trầm trồ khen tài anh. Mấy bức sơn mài được bán hết với giá rất cao. Nhiều người hỏi mua cả những bức phác họa nhưng anh không bán. Anh đem về lồng năm bức vào cái khung kính và tặng cho gia đình tôi. Vì phác hoạ bằng phấn mầu, nếu quấn lại, nét vẽ sẽ nứt vỡ, nên phải lồng khung treo và để di chuyển cho dễ"[25].

Bà Nguyễn Thị Vinh vợ ông Trương Bảo Sơn cũng viết: "Anh Nguyễn Gia Trí thường đem giá gỗ, ngồi vẽ dưới gốc cây. Cũng tại nơi đây, tôi đã ngồi làm mẫu, để anh vẽ "portrait". Tấm tranh này, sau anh phải bán cho ông bà Lãnh sự người Anh ở Hương Cảng, khoảng năm 1948 hay 1949"[26].

Trong thời gian ở Hương Cảng, Nguyễn Gia Trí vẽ tranh và Trương Bảo Sơn làm cho công ty hàng hải của Hoà Lan để sinh sống. Chỉ hai người này có "công ăn việc làm". Phần còn lại không ai có việc. Hứa Bảo Liên, vợ Nguyễn Tường Bách, sống ở Quảng Châu, đến tháng 9-1949, mới có việc dạy tiểu học. Nguyễn Tường Bách là bác sĩ nhưng chưa thạo tiếng Tầu và chưa có chứng chỉ "tương đương", mãi đến tháng 2-1950, mới xin được vào làm bác sĩ ở bệnh viện Quảng Châu[27].

Cái chết của ba họa sĩ

Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954) học trường Mỹ Thuật Đông Dương khoá (1926-1931), đã cộng tác đắc lực với Phong Hoá Ngày Nay đến những ngày cuối, rồi tiếp tục cùng Khái Hưng chủ trương ra báo Thời Phong cuối năm 1946. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, ông theo Việt Minh. Ông bị trúng bom, mất tại Ba Khe, gần Điện Biên Phủ ngày 17-6-1954.

Hoạ sĩ Nguyễn Tường Lân (1906-1946) học khoá (1928-1933), cộng tác viên Phong Hoá Ngày Nay, theo Việt Nam Quốc Dân Đảng, trốn sang Côn Minh, rồi trở về Hà Nội, đến phi trường Gia Lâm, ông bị Việt Minh bắt, đưa đi mất tích, ở tuổi 40. Nguyễn Tường Bách cho biết:

"Khi họa sĩ Nguyễn Tường Lân (trùng tên với Thạch Lam) còn ở đây, anh thường thường vác giá gỗ ra phác họa cây bạch hoa. Sau này, anh về nước lúc nào tôi cũng không biết, chỉ nghe nói là khi bước xuống chân bay Gia Lâm, thì bị Việt Minh bắt, không rõ tung tích ra sao"[28].

Vậy họa sĩ Nguyễn Tường Lân đã ở trụ sở Quốc Dân Đảng tại Côn Minh cùng khoảng thời gian với Nguyễn Tường Bách.

Họa sĩ Nguyễn Cát Tường (1912-1946), học trường Mỹ Thuật Đông Dương khoá (1928-1933), người dẫn đầu phong trào cải tiến y phục phụ nữ trên đất Bắc và là cộng tác viên kỳ cựu của Phong Hóa Ngày Nay. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ đầu tháng 12-1946, ông từ Hà Nội cùng gia đình tản cư lên Sơn Tây, làng Tràng Cát. Khi ông trở lại Hà Nội, ít lâu sau, thì bị Việt Minh bắt ngày 17-12-1946, đưa đi biệt tích. Nguyễn Tất Đạt, con trai ông, viết:

"Hôm đó là ngày 17 tháng 12 năm 1946. Buổi sáng ấy, tại cái sân này [sân nhà cụ Cửu ở làng Tràng Cát, nơi gia đình Nguyễn Cát Tường tản cư từ Hà Nội về] bố tôi đã mang chị em chúng tôi ra đây để làm mấy động tác thể dục.

Trưa hôm ấy, theo lời kể của mẹ tôi, bố tôi và ba người nữa là ông Tôn Thất Định, Phạm Giao[29] và anh Hạt người lão bộc của gia đình cụ Phạm [Quỳnh] – trở lại Hà Nội. Bố tôi về Hà Nội thăm nhà và để lấy thêm tiền cho mẹ tôi.

Anh Hạt sau khi trở về Tràng Cát có kể lại rằng: Khi về gần tới nhà thì anh Hạt đi theo ba người kia một quãng ngắn. Đến đầu phố Hàng Bông, anh Hạt thấy ba người kia bị an ninh thành phố chặn lại, sau đó cả ba người bị bắt. Anh Hạt lùi lại phía sau và thoát được.

Vài tuần lễ sau mẹ tôi sanh đứa em gái sau cùng. Em sanh thiếu tháng. Có lẽ vì mẹ tôi quá xúc động trước tin bố tôi bị bắt. Mẹ tôi đã sanh em tôi ở một cái chòi nhỏ ngay đằng sau căn nhà ngói này"[30]. Năm ấy, họa sĩ Nguyễn Cát Tường mới 34 tuổi.

Hoàng Đạo qua đời

Việt Nam Quốc Dân Đảng đang trong tình trạng "thất bại, lưu vong, bế tắc" như Nguyễn Tường Bách đã viết, thì một biến cố đau thương xảy ra: Hoàng Đạo mất đột ngột trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông đi Quảng Châu, ngày 22-7-1948. Ông được an táng tại thị trấn Thạch Long. Việc này xảy ra đúng vào lúc tình trạng Nguyễn Tường Tam, theo Nguyễn Tường Bách: "anh Tam mắc chứng suy nhược thần kinh, hay mất ngủ, lo âu".

Hoàng Đạo là người em sát cánh, là cột trụ của Nhất Linh, và chắc chắn Hoàng Đạo đã giữ phần chủ chốt trong chiến lược "lật đổ Bảo Đại để lập chính phủ dân chủ".

Nhất Linh phản ảnh lại việc này trên Văn Hoá Ngày Nay, trong bài viết ngắn tựa đề "Cúc Xưa", nhắc đến căn nhà ở Bạch Hạc Động và giải thích việc ông vẽ bức tranh cúc năm 1948:

"Mấy bông cúc này này tôi vẽ cách đây đúng 12 năm (1948) và lại đúng vào năm Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long mất. Chậu cúc này do chính tay Hoàng Đạo mua về để bày tết, trang hoàng một gian nhà tiều tụy ở một làng hẻo lánh Quảng Đông, nơi mà hai anh em, sau việc Bảo Đại ký kết hiệp ước Bollaert, rút lui về để nghiên cứu một lý thuyết quốc gia khả dĩ tập trung được hết thẩy các khuynh hướng rời rạc trong hàng ngũ chống cộng. Năm ấy công việc nghiên cứu đang tiếp tục thì cái chết đột ngột của Hoàng Đạo làm gián đoạn (…) Cũng năm ấy, làm thơ khai bút Hoàng Đạo lại có viết một câu: "Nhất chiêu, thừa Bạch hạc" (một sớm cưỡi con hạc trắng). Bạch hạc là tên làng chúng tôi ở"[31].

Tranh Cúc xưa của Nhất Linh

Khi viết đoạn văn này Nhất Linh nhớ lầm mấy tháng: thực ra, Tết 1948, khi Hoàng Đạo mua chậu cúc, Bảo Đại chưa ký hiệp ước vịnh Hạ Long. Đến tháng 6-1948, thoả ước này mới được công bố, và tháng 7-1948, Hoàng Đạo mất.

Vậy ta có thể đoán rằng: sau khi chương trình "lật đổ Bảo Đại" bị khám phá tháng 11-1947, Nhất Linh và Hoàng Đạo rời Hương Cảng về Quảng Châu để tiếp tục phát triển việc nghiên cứu một "lý thuyết quốc gia", làm nền cho một "chính phủ quốc gia dân chủ".

Nên để ý đến chi tiết này: Nhất Linh và Hoàng Đạo rút lui về căn nhà tiều tụy ở một làng hẻo lánh Quảng Đông, tức là căn nhà ở Bạch Hạc Động, tuy vậy, Nhất Linh không nhắc đến Nguyễn Tường Bách. Điều này chứng tỏ:

Chương trình "nghiên cứu một lý thuyết quốc gia" hay chương trình "lật đổ Bảo Đại để thành lập chính phủ dân chủ" vẫn tiếp tục sau khi tài liệu này bị tịch thu ở nhà Nguyễn Gia Trí tại Hồng Kông. Có lẽ hai người anh đã giấu Nguyễn Tường Bách, không cho em út biết, hoặc tham dự vào chương trình này.

Ngày 5-6-1948, hiệp ước vịnh Hạ Long được công bố: "Pháp long trọng thừa nhận Việt Nam độc lập và thống nhất. Việt Nam sẽ thực hiện lấy việc thống nhất. Việt Nam tuyên bố gia nhập khối Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết"[32].

Một tháng rưỡi sau, Hoàng Đạo qua đời. Cái chết của Hoàng Đạo có liên quan gì đến sự kiện lịch sử này không? Phải chăng vì tức giận? Căng thẳng? Nên Hoàng Đạo bị nhồi máu cơ tim? Còn một lẽ thứ hai: khi bị Pháp bắt cuối năm 1940, Hoàng Đạo đã bị tra tấn dã man, phải chăng cái chết của ông là hậu quả của cực hình này?

Dù sao chăng nữa, cái chết của Hoàng Đạo gây sốc lớn cho Nhất Linh. Nguyễn Tường Bách viết: "Sự tang tóc này khiến cho bệnh suy nhược thần kinh của Nhất Linh càng nặng thêm"[33]. Và ông tóm tắt tình trạng bế tắc của anh trong câu: "Ý anh vẫn là không thể đi với Pháp được dù là tạm thời, và cũng không thể đi với Cộng sản dù là kháng chiến. Nhưng xem ra, con đường thứ ba chưa có cách nào thực hiện được cụ thể"[34].

Nguyễn Tường Bách ly khai Quốc Dân Đảng

Sau cái chết của Hoàng Đạo, Nhất Linh chỉ còn Nguyễn Gia Trí là người bạn đồng hành thân thiết nhất từ khi thành lập Tự Lực Văn Đoàn (1933) và lập đảng Hưng Việt (1938).

Sau khi Hoàng Đạo mất, tình hình Quốc Dân Đảng Trung Hoa bắt đầu nguy ngập, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Bách được cử đi Nam Kinh để "cầu viện trong khi Trung Quốc còn sức mạnh và cũng để thăm dò tình thế thực tế ra sao, để tính toán tương lai"[35].

Tại Nam Kinh, nhận thấy Quốc Dân Đảng Trung Hoa không còn giúp được gì nữa, vì chính bản thân họ cũng đang tìm đường tẩu thoát trước sức tiến của Hồng quân.

Trở về Quảng Châu cuối năm 1948, Nguyễn Tường Bách quyết định bỏ chủ nghiã Tam dân theo ông không còn thích hợp nữa, để mở "con đường mới", lập nhóm Cách Mệnh Xã Hội.

Tháng 3-1949, Nguyễn Tường Bách chính thức thoát ly Quốc Dân Đảng[36] và quyết định ở lại Quảng Châu. Ông không nói rõ chủ trương "cách mệnh xã hội" của ông là gì, chữ "xã hội" này có hàm ý xa gần với "chủ nghiã cộng sản" hay không? Bởi vì một đảng xã hội dân chủ theo lối Tây phương, khó có thể sống còn dưới chế độ Mao Trạch Đông. Tuy nhiên quyết định ở lại Trung Hoa, khi Mao đắc thắng, nhất là việc ra khỏi Quốc Dân Đảng của Nguyễn Tường Bách chắc chắn đã chia cách hai anh em Nguyễn Tường. Bởi vì Nhất Linh luôn luôn gắn bó với Quốc Dân Đảng, nên khi ra tờ Văn Hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, ông đã chọn ngày công bố số báo đầu tiên là 17-6-1958, ngày đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lên đoạn đầu đài (17-6-1930). Một sự lựa chọn sâu lắng, đớn đau âm thầm, hầu như không ai biết. Trong hồ sơ kỷ niệm của Nhất Linh, chỉ còn Nguyễn Tường Long, ông không bao giờ nhắc đến Nguyễn Tường Bách nữa. Đối với người đảng trưởng, sự ly khai của một đảng viên đã là một phản bội, và khi đảng viên ấy lại là em ruột mình, sự đớn đau hẳn lớn gấp bội phần.

Tình cảnh đau đớn này được tiếp nối bằng sự bất đồng giữa hai lãnh tụ hải ngoại: Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam. Trương Bảo Sơn viết: "Thế là từ đó sinh xuất ra hai phe, phe ông Vũ và phe ông Tam trong VNQDĐ. Chi bộ Hồng Kông cũng chia thành hai phe, mỗi phe theo một ông, bất cộng tác cho tới ngày hai ông hóa người thiên cổ"[37].

Các đảng phái quốc gia hầu như tan rã, người bỏ cuộc, người về nước cộng tác với chính quyền Bảo Đại.

Tóm lại: sự thất bại của hội nghị Hương Cảng. Sự tan vỡ của Mặt Trận Nam Kinh. Mưu toan "lật đổ Bảo Đại" bị bại lộ. Cái chết đột ngột của Nguyễn Tường Long. Nguyễn Tường Bách ly khai Quốc Dân Đảng. Sự phân liệt giữa Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam… Và sau cùng Vũ Hồng Khanh, Đỗ Đình Đạo… trở về Việt Nam phục vụ chính quyền Bảo Đại.

Tất cả những sự kiện này đã ảnh hưởng sâu đậm đến tinh thần Nhất Linh, khiến ông chán chường chính trị, trở về với văn chương, sau khi Hoàng Đạo qua đời.

Nguyễn Tường Bách dường như đã nhận định sai lầm về anh, khi ông cho rằng Nhất Linh bị bệnh suy nhược thần kinh. Trong tình trạng thất bại như thế, Nhất Linh có thể bị suy nhược thần kinh thực, nhưng sự thật, chắc không hẳn như vậy: Nhất Linh chỉ bị yếu đi vì đau khổ, và ông đã đóng kịch suy nhược thần kinh để che mắt thế gian.

Trên trang đầu bản thảo cuốn tiểu thuyết Xóm Cầu Mới, Nhất Linh ghi những dòng sau đây: "Tặng Nguyên, người rất thân yêu đã khuyên tôi trở lại đời văn sĩ và nhờ thế cuốn Xóm Cầu Mới này mới ra đời.

Hương Cảng, trên núi, 16 tháng 10 năm 1949, 1g30 trưa".

Theo Trương Bảo Sơn, bà Phạm Thị Nguyên (1907-1981) ra thăm chồng ở Hồng Kông hai lần. Vậy lời đề tặng này, Nhất Linh viết khi đã hoàn tất cuốn Xóm Cầu Mới, chắc vào lúc bà ra thăm ông lần thứ hai. Như thế, ông đã viết (lại) truyện này trong vòng hơn một năm, từ sau khi Hoàng Đạo qua đời (tháng 7-1948) và hoàn thành tháng 10-1949. Thực ra, Nhất Linh viết Xóm Cầu Mới tới bốn lần, lần đầu năm 1940 tại Hà Nội, lần thứ hai năm 1943 tại Quảng Châu; lần thứ ba, 1949 tại Hương Cảng và lần thứ tư năm 1951, tại Hà Nội[38].

Theo dây chuyền những sự kiện, ta thấy, Nhất Linh không thể bị bệnh suy nhược thần kinh, mà có lẽ ông chỉ giả bộ đóng vai người suy nhược thần kinh để che mắt tình báo. Bởi vì một người bị suy nhược thần kinh thì không thể sáng tác được. Không thể viết một tác phẩm lớn, đầy ắp những mối liên lạc cực kỳ mong manh tế nhị giữa con người trong Xóm Cầu Mới, tác phẩm lớn sau cùng của Nhất Linh. Không những sáng tác mà ông còn khuyến khích, chỉ bảo Nguyễn Thị Vinh viết tác phẩm đầu tay Thương yêu, trở nên nhà văn sau này.

Phải minh mẫn lắm mới sáng tác được, Nhất Linh viết để quên nỗi buồn u uất, quên sự tan nát của gia đình, của bè bạn, của các đồng chí đã hy sinh hay đã phản bội, sự thất bại của đảng mình, trước một tương lai mờ mịt cho dân tộc, và đó là lý do khiến ông thường khóc trong đêm, mà người con út Nguyễn Tường Thiết đã bắt gặp nhiều lần.

Cuối năm 1950, Nhất Linh về nước. Nguyễn Gia Trí và gia đình Trương Bảo Sơn – Nguyễn Thị Vinh về sau Nhất Linh hai năm, năm 1952[39].

II- Ngày trở về

Nhất Linh và Nguyễn Gia Trí trở về

Nguyễn Tường Bách viết: "Một ngày năm 1950, tôi ra Hồng Kông tới chỗ anh ở bên một sườn đồi, bên cạnh một suối trong. Hai anh em nói chuyện rất lâu về tương lai. Anh khuyên tôi nên cẩn thận khi còn lại Quảng Châu, và tôi cũng tán thành việc trở về Hà Nội vì cần có người săn sóc. Anh ngần ngại, không muốn trở về khu Pháp chiếm. Nhưng cuối cùng anh cũng đồng ý về nước, ít ra trong giai đoạn này"[40].

Nhất Linh về Hà Nội năm 1950, năm sau ông vào Sài Gòn. Nguyễn Gia Trí và gia đình Trương Bảo Sơn – Nguyễn Thị Vinh, về Hà Nội năm 1952, ở lại ba tháng, rồi theo lời khuyên của Nhất Linh, kéo nhau vào Sài Gòn"[41].

Chân dung Nhất Linh do Nguyễn Gia Trí vẽ, khoảng năm 1953

Nguyễn Tường Thiết, viết:

"Đó là khoảng cuối năm 1950 khi ông từ Hương Cảng trở về Hà Nội (…) Đêm hôm đầu tiên đoàn tụ… trong căn nhà số 15 Hàng Bè Hà Nội… tôi còn nhớ ông nói với chúng tôi ngày hôm sau báo chí sẽ đến gặp ông và ông sẽ tuyên bố quyết định từ bỏ cuộc đời chính trị để trở về với đời viết văn (…). Đầu tháng 4 năm 1951, Nhất Linh và toàn gia đình bác Thụy tôi [Nguyễn Tường Thụy, anh cả] dọn vào Nam (…) Ông mở nhà xuất Phượng Giang (…) Thời gian này họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng thường lui tới. Ông đã giúp cha tôi trình bầy mẫu bìa các cuốn tiểu thuyết qua nghệ thuật cắt và dán giấy mầu của ông. Bức họa chân dung Nhất Linh bằng sơn dầu được nhiều người biết tới, nhất là sau khi Nhất Linh qua đời và bức tranh được trưng trong những dịp tưởng niệm ông, là do họa sĩ vẽ trong thời gian này. Bức vẽ thực ra còn dang dở vì trước khi vẽ xong, ông Trí đã bị bắt đi an trí ở Thủ Dầu Một một thời gian. Khi trở về, ông định vẽ tiếp thì cha tôi không cho. Thành thử bức chân dung chỉ có khuôn mặt là đầy đủ còn bàn tay cầm gói thuốc lá thì mới chỉ là mấy nét phác. Sau này cha tôi nói đùa là ông thích để nguyên như vậy vì chính cuộc đời ông cũng là một tác phẩm chưa hoàn tất"[42].

Bức tranh Nguyễn Gia Trí vẽ Nhất Linh, sẽ là hình ảnh sau cùng của người nghệ sĩ Nhất Linh mà chúng ta "được biết" qua tác phẩm.

Nguyễn Gia Trí bị bắt đi an trí ở Thủ Dầu Một

Theo Nguyễn Tường Thiết, họa sĩ bị bắt lúc đang vẽ dở bức chân dung Nhất Linh.

Khi Nhất Linh cùng gia đình Nguyễn Bảo Sơn đi thăm Nguyễn Gia trí năm 1953 ở Thủ Dầu Một, họ có chụp chung một bức ảnh. Nhìn kỹ bức ảnh này, thấy tranh treo la liệt trên tường hoặc dựa vào tường, và những bức ngổn ngang trên bàn… chứng tỏ đây là một… xưởng vẽ hơn là một nhà tù. Vậy vì lý do gì mà Nguyễn Gia Trí bị bắt? Chúng tôi hỏi anh Nguyễn Tường Thiết, anh Thiết trả lời: trong gia đình tôi cũng có nghi vấn như thế, và cho biết anh Thạch (anh của anh Thiết) có nhắc đến ông Bảo Đại. Câu nói này khiến chúng tôi liên tưởng đến sự kiện sau đây:

Ngày 20-10-1950, Quốc trưởng Bảo Đại về Sài Gòn, gần như cùng thời điểm Nhất Linh về Hà Nội. Tại Hà Nội, Nhất Linh tuyên bố với báo chí không làm chính trị nữa: Quan điểm rõ ràng, dứt khoát. Năm 1952, Nguyễn Gia Trí, một nhân vật chủ chốt trong Tự Lực văn đoàn và Việt Nam Quốc Dân Đảng, trở về Sài Gòn, với "tiền án": chứa chất trong nhà ở Hồng Kông tài liệu "lật đổ chính phủ Bảo Đại".

Những sự kiện này có thể đưa Nguyễn Gia Trí vào "sổ đen" của mật vụ Pháp và của Bảo Đại; biến Nguyễn Gia Trí thành một phần tử "nguy hiểm", cần phải đề phòng. Nhưng Pháp và Bảo Đại đều kính nể một tài năng như Nguyễn Gia Trí, nên họ không thể giam ông, mà chỉ giam lỏng, và tạo điều kiện để họa sĩ vẫn có thể sáng tạo, vì thế, nơi họa sĩ bị quản thúc, như Trương Kim Anh viết: "Hồi đó, bác Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp an trí tại Thủ Dầu Một, trong một garage của xưởng làm đồ sơn mài"[43], đúng là một nơi cho họa sĩ có thể tung hoành, thử nhiệm kỹ thuật sơn mài.

Đến năm 1954, Nhất Linh xin sang Pháp "chữa bệnh", về việc này Nguyễn Tường Thiết viết: "Năm 1954, khoảng ký kết hiệp định Genève, cha tôi sang Pháp để chữa bệnh và cũng để thăm người anh cả [Nguyễn Tường Việt] của tôi đã sang Pháp du học từ năm 1949."[44]. Nguyễn Tường Thiết lại kể lại lời Nguyễn Tường Việt: "Anh chắc chắn là không hề có chuyện cậu đi chữa bệnh trong mấy tháng cậu ở Pháp". Và suy ra: "Những chuyện cậu giả ốm giả đau hoặc lấy cớ chữa bệnh đều là cái "tắc-tích" chính trị của cậu mà thôi"[45]. Người con út của Nhất Linh đã đoán đúng ý cha: ông luôn luôn có những hoạt động chính trị bí mật, và ông phải giả bệnh để trốn tránh những gọng kìm của lịch sử; khác hẳn với người em út Nguyễn Tường Bách, đã không hiểu anh, khi tưởng ông bị bệnh thần kinh từ thời kỳ 1947-1948 ở Quảng Đông.

Nhất Linh chơi lan

Tháng 4/1951, ông vào Sài Gòn, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản những sách Tự Lực Văn Ðoàn. Trương Bảo Sơn viết: "Từ ngày vào Sài Gòn, ông Tam ở nhà ông Thụy, Giám đốc Bưu điện. Ông ở trong một căn phòng nhỏ với con trai út là Nguyễn Tường Thiết. Ông cho tái bản một số tác phẩm cũ và xuất bản những tác phẩm mới của ông và vài ba văn hữu, in tại nhà Nguyễn Đình Vượng và giao nhà Nam Cường phát hành.

Tuy làm việc đấy, nhưng ông xuống tinh thần, như người thất chí, chán đời, mệt mỏi, chỉ tiếp một số bạn bè thân. Ông tuyên bố không làm chính trị nữa và đưa con lên Đà Lạt, lấy thú đi rừng kiếm lan, chơi lan để giải buồn.

Ông tìm được nhiều loại lan. Trừ những loại đã có tên nhiều người biết, ông đặt tên cho những loại bông lạ theo hình dáng, màu sắc của nó.

Những ngày nghỉ, gia đình tôi thường lên Đà lạt thăm ông, thấy trong nhà, nền vách la liệt các loại lan. Chúng tôi theo ông đi tìm lan, mới thấy ông đi bộ rất nhanh và dai sức. Mắt ông lại tinh nên thường trông thấy lan trên những cây cao trước chúng tôi.

Ông yêu lan, mê lan đến độ bưng cả chậu lan Thanh Ngọc lên giường ngủ chung và tặng lan hai câu thơ:

Sắc trong Thanh Ngọc, hương thơm mộng

Một thoáng mơ tiên, thoảng xuống trần

Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chơi lan đến độ vô tình đã gây thành phong trào chơi lan ở Đà Lạt cùng vài tỉnh lân cận.

Khoảng 1955, nhân ông cậu bà Tam và bác sĩ Nguyễn Sĩ Dinh, một bạn thân khác của ông, tậu được một miếng đất ở làng Fin Nôm cách Đà Lạt độ 30 cây số, ông Tam đã đến đây, tự vẽ kiểu và dựng một ngôi nhà gỗ lợp lá theo kiểu "Nhà ánh sáng" bên cạnh suối Đa Mê. Ông thường mắc võng giữa hai thân cây, để nằm hoặc ngồi viết, hoặc thổi hắc tiêu (…)

Rồi một hôm đến thăm ông, chúng tôi thấy ngôi nhà lá của ông nằm tả tơi, cột kèo lăn lóc khắp mặt đất. Nó đã không đứng vững trong một trận mưa to gió lớn. (…)

Tới 1957, một phần có lẽ sức khoẻ đã bình phục, một phần những chuyện buồn theo thời gian đã nguôi ngoai, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã hạ sơn, từ giã Đà Lạt, trở lại Sài Gòn, hoạt động cả về chính trị lẫn văn hoá, để không bao giờ có dịp trở lại Đà Lạt nữa"[46].

Thời gian Nhất Linh "chơi lan" ở Đà Lạt, có lẽ chỉ là thời gian Nhất Linh ở ẩn để sáng tạo. Ta có thể hiểu: từ những ngày ông quyết định trở về với văn chương, ông đã không ngừng sáng tác. Những truyện ngắn của ông tập hợp lại trong Xóm Cầu Mới, những tiểu luận văn chương trong tập Viết và đọc tiểu thuyết, v.v. đều đã được sửa soạn hoặc viết trong thời kỳ này. Khi thấy đã có tạm đủ tác phẩm để ra mắt độc giả, ông hạ sơn, về Sài Gòn năm 1957.

Giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay

Năm 1958, ông khai trương giai phẩm Văn Hoá Ngày Nay, một tạp chí không định kỳ, với chủ ý thành lập một Tự Lực Văn Đoàn mới, với một số nhà văn trẻ như Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Tường Hùng, v.v. Nhưng Văn Hoá Ngày Nay chỉ ra được 11 (số 1 ra ngày 17-6-1958 đến số 11, ra ngày 21-4-1959) thì đình bản.

Về sự đình bản này, mỗi người đưa ra một thuyết khác nhau, phần lớn đều đổ lỗi cho sự "độc tài" của chính quyền Ngô Đình Diệm. Tôi nghĩ không phải. Thời kỳ đó là thời kỳ tự do sáng tác, hai ông Diệm, Nhu, là những trí thức chân chính, họ ghét đảng phái, nhất là đảng Đại Việt Quốc Dân Đảng, nhưng không bóp nghẹt văn chương, nhất là với một tờ giai phẩm thuần túy văn chương như Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh. Lý do chính của sự đình bản Văn Hoá Ngày Nay, theo tôi, đến từ văn chương: Những nhà văn trẻ cộng tác với giai phẩm này không thực sự là những nhân tài. Họ không thể thay thế Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ. Bấy giờ Nhất Linh chỉ còn có một mình – ở trong môi trường văn chương đang rầm rộ nổi lên những tên tuổi mới của những Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, v.v. – nên Nhất Linh chỉ "cầm cự" được 11 số, rồi ngừng.

Nhất Linh tham gia đảo chính

Trung thành với nhiệm vụ đảng trưởng, tuy ông không bao giờ chính thức công nhận chức vụ này, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không thể bỏ hẳn chính trị, bỏ rơi đồng chí, nên ông đã tham gia vụ đảo chính ngày 11-11-1960, và ông bị gọi ra tòa ngày 8-7-1963.

Nhất Linh uống thốc độc tự vận ngày 7-7-1963.

Cuộc đảo chính hụt của Vương Văn Đông và Nguyễn Chánh Thi xảy ra ngày 11-11-1960. Sự thể không thành vì hai quân nhân này đã hành sự không phải lúc: năm 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm còn vững mạnh và rất được lòng dân. Học sinh tuy có phải hát suy tôn Ngô Tổng Thống, nhưng sáng tác vẫn được tự do: Văn học miền Nam lúc đó đang trong thời kỳ cực thịnh. Năm 1960, người ta tranh luận không ngừng với những ý tưởng dị kỳ và nổi loạn của Thanh Tâm Tuyền trong Tôi không còn cô độc, bàn luận về văn phong độc đáo của Mai Thảo. Không mấy ai nói đến tình trạng "độc tài toàn trị" của chính quyền Ngô Đình Diệm! Một cuộc đảo chính trong trường hợp như thế ít có cơ thành tựu.

Trương Bảo Sơn đã tham dự cuộc đảo chính này, kể lại:

"Khi thảo truyền đơn, trong danh sách những người ký tên, chúng tôi đã để tên Nguyễn Tường Tam lên đầu, rồi mới đến tên các cụ Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Vân, Nguyễn Xuân Chữ, v.v., ông Tam đã sửa lại, để tên ông sau tên ông Chữ. Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông giải thích: "Anh đừng quên người ta vẫn nói miền Nam của người Nam, mình là người Bắc di cư, phải tôn trọng điều đó."

Cuộc đảo chánh thất bại, các đồng chí của ông Tam bị bắt gần hết. Ngoài ra ông Diệm còn cho bắt giam hết các nhân sĩ và lãnh tụ đảng phái và giáo phái khác, không trừ một ai, nhưng… trừ Nguyễn Tường Tam!

Sao có sự lạ lùng như vậy?

- Phải chăng vì Ngô Đình Diệm kính nể Nguyễn Tường Tam?"[47]

Trương Bảo Sơn nghĩ rất đúng: Ngô Đình Diệm kính nể Nguyễn Tường Tam, nên không bắt. Cũng giống như năm 1946, Võ Nguyên Giáp không bắt Khái Hưng và Phan Khôi, hai vị thủ lãnh tinh thần của Quốc Dân Đảng.

Những người làm chính trị ở Việt Nam, cả hai phe quốc cộng, đều biết trọng nhân tài.

Nguyễn Tường Tam, bị đòi ra "hầu toà" án quân sự ngày 7-7-1963, bởi vì ông đã ký tên trong bản truyền đơn tuyên bố lý do đảo chính. Việc này toà án binh không thể bỏ qua, nên họ phải gọi ông ra tòa làm nhân chứng, để chứng tỏ không ai có thể đứng trên pháp luật, nhất là những nhân sĩ cách mạng nổi danh đồng ký tên như Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Trần Văn Vân, Nguyễn Xuân Chữ… đều đã bị cầm tù từ hai năm rưỡi trước.

Riêng Nhất Linh, ngoài việc trợ giúp đàn em, ông "tham dự" vào cuộc đảo chính này cũng là chuyện bình thường, bởi vì ông thích đảo chính, hồi ở Quảng Châu, Hương Cảng, ông đã hoạch định chương trình đảo chính Bảo Đại, mặc dù lúc đó Bảo Đại chưa nắm chính quyền. Bây giờ ông bằng lòng để tên vào danh sách ký tuyên ngôn lên án chế độ Ngô Đình Diệm, cũng để tỏ sự chống đối một chính quyền ông cho là thiếu dân chủ. Ông đã nói với Hoàng Xuân Hãn từ hội nghị Đà Lạt: "Những việc chính trị thôi để các anh làm. Còn tôi thì về với văn hóa mà thôi".

Vậy, sau khi đảo chính thất bại, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm gì? Dĩ nhiên là ông đi trốn. Nhưng họ không lùng bắt ông vì nếu muốn bắt, họ đã bắt được rồi.

Ông đi trốn và ông viết tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy. Tác phẩm này sẽ là đầu mối của việc Nhất Linh tự vận.

Nguyễn Tường Thiết cho biết trên tập bản thảo tập tiểu thuyết này:

"Ông ghi ngày khởi viết 28-11- 60 và ngày viết xong 28-1-60. Hai tháng. Hai hôm trước khi khởi viết bộ truyện ông phác thảo phần dàn truyện và đặc tính nhân vật, xong ông ghi ngày giờ trên trang đầu tập bản thảo: 26-11-60, 3 giờ sáng.

Vào cái đêm khuya khuắt ấy Sài Gòn chìm trong bóng tối bất an. 15 ngày trước đó, 3 giờ sáng, tiếng súng nổ ở phía Dinh Độc Lập. Cuộc đảo chính bất thành 11-11-60 mà cha tôi dính líu về mặt chính trị hẳn còn nguyên vẹn trong tâm trí ông. Trên một căn gác nào đó của thành phố, nơi ông ẩn trốn, tôi hình dung qua những ghi chú thời khắc trên từng trang bản thảo (30-11, 4 giờ sáng; 4-12, 2 giờ sáng; 6-12, 8 giờ sáng, v.v.) một Nhất Linh lặng lẽ đơn độc ngồi viết tác phẩm sau cùng của đời mình, viết say mê, viết không nghỉ, như thể ông tự cho là mình sẽ không còn một cơ hội nào khác để viết nữa…"[48].

Giòng sông Thanh Thủy được nhà Đời Nay in lần đầu năm 1961.

Không ai tham dự vào một cuộc đảo chính, mà còn được in sách, trong lúc các bạn đồng hành đều ở trong tù. Sự kiện này cho thấy hai điều:

- Ông Diệm không muốn bắt Nhất Linh; cũng như khi Sartre xuống đường biểu tình, Bộ trưởng Nội vụ đòi đi bắt, De Gaulle trả lời: Không ai bắt Voltaire.

- Nhất Linh không hề mắc bệnh tâm thần như nhiều người suy tưởng, thậm chí có người còn "chứng minh" và "xác định" điều này qua "văn bản", để chứng minh ông đã tự tử tới hai lần!

Như tôi đã nói ở trên, năm 1948, ở Hương Cảng, Nhất Linh không thể bị bệnh suy nhược thần kinh, như nhận xét của Nguyễn Tường Bách, bởi vì người suy nhược thần kinh không thể sáng tác, không thể viết được Xóm Cầu Mới.

Giòng sông Thanh Thủy đòi hỏi một trí óc minh mẫn, một lập luận vững chãi và một sự bình yên của tâm hồn. Đây không thể là một tác phẩm của người sống trong lo âu sợ sệt cho tính mạng. Chứng tỏ Nhất Linh biết thừa ông Diệm không động đến mình.

Sau này, năm 1963, khi Nhất Linh tự vận, người ta lên án Tổng thống Ngô Đình Diệm về cái chết của Nhất Linh là sai lầm và quá đáng.

Chính tác phẩm của Nhất Linh đã ngỏ cho thấy một phần sự thật, như ta sẽ thấy sau này.

Sự tự phán của Nhất Linh

Trong những trang Nguyễn Tường Thiết viết về cha, đặc biệt nhất là những dòng này:

"Nhất Linh thường viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy, qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lòm còm bò dậy vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ, sau lớn dần không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìh nhau, một người anh họ lớn tuổi hơn, ra dáng hiểu biết, giải thích: "Chú Tam khóc vì chú nhớ chú Long đấy!" Sau này tôi biết, ông đã khóc âm thầm nhiều đêm vào những dịp khác. Không ai có thể đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kỳ lạ và kinh hãi cũng được tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ờ trong đêm"[49].

Tôi đã đọc những dòng này của Nguyễn Tường Thiết, nhiều lần, mong tìm thấy bí mật trong những giờ phút cuối của Nhất Linh, nhưng không thể đạt được, và tôi hiểu rằng mỗi con người có một bí mật, mà họ mang đi trong cái chết. Việc Nhất Linh tự tử, đã bao nhiêu bài viết, đã bao lời ca tụng, bao giả thuyết đưa ra, ngay cả đến câu Nhất Linh viết: "Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả", cũng không thể dùng được. Vì nó không đúng, ít nhất không đúng với lúc ông bình tĩnh nuốt những viên thuốc ngủ, sau khi đã bàn với Nguyễn Tường Triệu (tức Trần Khánh Triệu) bằng tiếng Pháp về dự định tự tử của mình; rồi sau đó ông lại sai hai con Triệu và Thiết đi mua rượu. Ông uống thuốc ngủ trong thời gian 15 phút họ vắng mặt, và khi họ đem rượu về, ông uống một lúc thật nhiều, để rượu và thuốc ngủ kết liễu đời ông: Một quyết định sáng suốt, minh mẫn, chi li đến phút chót, không thể có ở người "mắc bệnh tâm thần".

Trở lại với câu: "Đời tôi để lịch sử xử", là một lời bài bản, từ chương gần như khẩu hiệu, mà Nguyễn Tường Tam đảng trưởng Quốc Dân Đảng, viết cho các đồng chí đang ở trong tù và cho một quảng đại quần chúng hừng hực chờ đợi những lời hùng hồn, để có cớ lên án một chế độ mà họ đang muốn đạp đổ. Năm 1963, tình thế của chính quyền Ngô Đình Diệm đã khác nhiều so với năm 1960: họ đã mất lòng dân vì những sai lầm trong chính sách cai trị.

"Đời tôi để lịch sử xử", vì thế, không thể là lời của một nhà văn như Nhất Linh, có bút pháp sâu sắc, chứa đựng nhiều ý trong một lời, một câu, một tác phẩm. Và nhà văn cũng không cần phải biện hộ cho hành động của mình.

Vậy lý do tự tử của Nhất Linh phải nằm ở chỗ khác, có ý nghiã cao hơn, ở chỗ không ngờ nhất: đó là sự tự phán của một hiền triết hoặc sự thám thính bên kia thế giới của một nhà văn.

Việc thám thính thế giới sau cái chết của nhà văn, tôi đã nói rồi, ở đây xin triển khai sự tự phán của một hiền triết mà tôi cho rằng khả thể hơn.

Sự tự phán này, Phan Bội Châu từng đã kinh qua, đã viết lại một cách rõ ràng và tha thiết trong bài tựa cuốn hồi ký Phan Bội Châu niên biểu (tức Tự phán) với lời phán xét nghiêm khắc đời mình sau đây:

"Than ôi! Lịch sử của tôi mà làm gì! Chỉ là một bộ lịch sử hoàn toàn thất bại! Chân trời góc biển gần ba mươi năm: cắt đầu vì tôi lây [vì tôi mà bị cắt đầu], họa tràn quận quốc, vào ngục vì phe phái, độc trôi đồng bào[50]. Thường nửa đêm vỗ ngực, quẹt mắt trông trời; hơn hai mươi năm, sa đà, trông râu mày hổ thẹn"[51].

Chính lòng nhân đã khiến nhà cách mạng Phan Bội Châu khựng lại, không tiếp tục sai phái chuyện nổ bom ám sát, và đã đưa cụ Phan đến thất bại. Và cũng chính cái lòng nhân ấy đã viết những lời Tự phán của Phan Bội Châu, đã tạo ra những tiếng khóc trong đêm khuya của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, đã đưa cụ Phan vào hàng hiền triết của dân tộc.

Võ Phiến kể một chuyện được nghe Vũ Khắc Khoan thuật lại:

"Bấy giờ là đầu thập niên 1960, Sài Gòn xôn xao không khí chính biến. Ông Vũ tỏ ý lo ngại tới sự an toàn của Nguyễn Tường Tam. Ông Nguyễn bảo rằng thực ra lúc này ông không trực tiếp hoạt động chính trị, chẳng qua bạn bè và đồng chí cũ có điều gì hỏi đến thì ông góp ý thôi. Ông Vũ nói mình biết có những người hoặc bị tù tội hoặc đã hy sinh tính mạng vì sự tin tưởng vào ông (Nguyễn) đấy. Không nghe đáp lại. Lát sau, ông Vũ quay nhìn, thấy ông Nguyễn đang khóc lặng lẽ"[52].

Đây là những giọt nước mắt có người chứng kiến, còn bao nhiêu giọt nước mắt không ai biết, những giọt nước mắt không rơi ngoài tim mình, như thơ Thanh Tâm Tuyền.

Những giọt nước mắt này biến thành văn bản lần đầu tiên, có lẽ là khi Nhất Linh thúc đẩy Đỗ Tốn viết lại truyện Ả Hẩu. Chắc chắn Nhất Linh thúc đẩy, vì nếu không có sự thúc đẩy của thủ lĩnh chưa chắc Đỗ Tốn đã "dám" viết lại chuyện ám sát Sài Điền theo lệnh của lãnh đạo trong Ả Hẩu in trên Văn Hoá Ngày Nay[53]. Nhất Linh thúc đẩy Đỗ Tốn viết lại chuyện này để xác định rằng: những lệnh giết người trong cách mạng là có thật, và cả người ra lệnh lẫn người thi hành đều có thể là những nhân vật chân yếu tay mềm, lòng đầy cảm thương rung động.

Văn Cao cũng ở trong trường hợp tương tự, khi ông vào đội biệt động vũ trang:

"Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù. Đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng và chỉ viết nhạc-không-lời"[54].

Vậy những lần "nửa đêm vỗ ngực, quẹt mắt trông trời" của Phan Bội Châu, những tan nát trong lòng chàng trai Đỗ Tốn, những thổn thức trong đêm khuya của Nhất Linh, những bài ca câm của Văn Cao, chính là những cách tự phán âm thầm của những bậc hiền triết biết mình phạm tội, và cũng là lý do đưa đến sự thất bại của họ.

Chúc thư của Nhất Linh

Giòng sông Thanh Thủytự phán của Nhất Linh về nhà chính trị Nguyễn Tường Tam, qua đó là bản án của văn học đối với cách mạng. Bản án viết trong hai tháng, trên một căn gác bí mật ở Sài Gòn.

Giòng sông Thanh Thủy là một trường giang tiểu thuyết, gồm ba phần: Ba Người Bộ Hành, Chi Bộ Hai Người Vọng Quốc. Toàn bộ viết về thời kỳ cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa, thời điểm 1944-1945, trên trục Côn Minh, Khai Viễn, Mông Tự, Hà Giang mà Việt Minh và Việt Quốc ở vào thế phải diệt nhau bằng những phương tiện tàn bạo nhất: ám sát, thủ tiêu. Hai nhân vật chính trong truyện: Ngọc, cán bộ Việt Quốc và Thanh, cán bộ Việt Minh, đều biết người nọ có nhiệm vụ phải giết người kia nhưng đồng thời họ cũng yêu nhau bằng một tình yêu tuyệt đối.

Toàn bộ những nhân vật trong tiểu thuyết biểu hiện một xã hội cách mạng lưu vong, chia thành hai phe quốc-cộng, sống trong ngờ vực cực điểm: phân liệt bạn thù, tìm cách lật mặt nạ nhau, để cuối cùng trở thành sát thủ.

Ba người bộ hành mở vào cuộc chiến rình rập, thủ tiêu của cặp gián điệp tay ba: Ngọc (Việt Quốc, cán bộ giao liên có nhiệm vụ thủ tiêu) đầu độc Tứ và Nghệ (cán bộ cao cấp Việt Minh).

Chi bộ hai người triển khai cuộc chiến tay đôi giữa hai người yêu nhau: Ngọc (Việt Quốc) và Thanh (Việt Minh trà trộn vào Việt Quốc).

Vọng quốc kết thúc cuộc trở về quê hương không bao giờ tới của hai người.

Giòng sông Thanh Thủy là cuốn tiểu thuyết phiêu lưu trinh thám tinh thần, ít có trong văn học, mọi toan tính xảy ra trong đầu các đối thủ, mà kẻ đi trinh sát cũng là kẻ bị dò thám. Vai trò đảo ngược giữa đôi bên, như thể không có thủ phạm, không có nạn nhân, mà cả hai bên đều là nạn nhân và thủ phạm.

Trong cuộc điều tra để đi đến hành quyết, tác giả phô bày cả một xã hội cách mạng lưu vong, đủ mọi từng lớp, giai cấp, con người sang hèn; đủ mọi thứ lý tưởng khác nhau, nhưng họ giống nhau ở chỗ quyết tâm theo đuổi lý tưởng của mình và nhất định thắng. Muốn thằng phải diệt trừ đối thủ.

Nam, thành viên Việt Quốc, sống ở Vân Nam, là một phụ nữ, làm nghề thầy thuốc và đỡ đẻ, một nghề cứu nhân độ thế. Khi nghe Nam kể việc nàng tiêm thuốc mê rồi bóp cổ Vương Đức, một cán bộ cao cấp của Việt Minh, Ngọc nghĩ:

"Chàng chưa hiểu được tại sao một người đàn bà nhu mì như Nam lại có thể giết người, mà lại tự ý giết một cách độc ác như thế, chàng thốt nhớ lại câu Thanh nói: "Bị cái guồng máy nó lôi kéo." [...] Ngay lúc Nam kể cho chàng nghe về việc giết Đức, chàng không khỏi ghê tởm vì lòng độc ác của con người; chàng thấy thương hại cho Đức khi bị Nam bóp cổ; đôi mắt mờ ấy biết đâu đã không đau khổ vì không hiểu và biết đâu Đức không có cha mẹ, vợ con hay một người yêu và trước khi chết đã không nghĩ tới những người thân yêu đó"[55].

Nhưng chỉ ít lâu sau, Ngọc cũng thực hành việc Nam làm, theo lệnh của Hải ngoại bộ, chàng phải thủ tiêu Tứ và Nghệ, hai cán bộ Việt Minh, mà chàng có nhiệm vụ dẫn đường về Việt Nam, một cách tàn ác và lạnh lùng không kém. Trong bối cảnh cực kỳ thơ mộng của núi rừng, Ngọc chọn một nơi mà chàng gọi là "chỗ ấy" và chàng dẫn hai người tới để thi hành bản án:

"Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:

Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!

Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,

Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,

Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long[56].

Bài hát của Lưu Hữu Phước, sáng tác lúc còn là đảng viên Việt Quốc, bí mật từ trong nước truyền ra. Nhất Linh đã giao lưu hai dòng cách mạng, hai con người, hai đường hướng đối chất nhau, trong cùng một tội ác: thủ tiêu. Ở đây, tội ác của con người nhân danh lý tưởng đã được mặc bộ đồng phục tổ quốcchính nghiã để tự do hành sự.

Gạt bỏ lương tâm ra ngoài, Ngọc say sưa với nhịp bước hùng ca, đường hoàng đi vào tội ác. Sau khi bỏ thuốc độc trong cà phê cho Tứ và Nghệ, "chàng nhấc thây của Nghệ và Tứ đem ra đặt sát gần bức vách núi rồi đẩy mạnh một cái. Hai cái xác rơi từ trên cao xuống, lọt vào khe mấy tảng đá. Đứng ở trên còn thấy hở ba cái chân, Ngọc bẻ một cành cây rậm lá quăng xuống, chàng phải quăng xuống bốn năm cành mới có một cành trúng và che phủ mấy cái chân hở. [...]

Ngọc ngẩng lên: trời cao và xanh, lơ lửng một vài đám mây trắng. Các ngọn núi bao bọc chung quanh dưới ánh sáng trong mùa thu có một vẻ đẹp rực rỡ mà vẻ đẹp của trời thu như còn xa hơn nữa"[57]

Tranh lan Thanh Ngọc của Nhất Linh

Ngọc và Thanh, là tên một loài lan quý lan Thanh Ngọc, chính Nhất Linh đã đặt tên cho loài lan này, từ ngày còn ở ẩn trên Đà Lạt:

Sắc trong Thanh Ngọc hương thơm mộng

Một thoáng mơ tiên thoảng xuống trần.

Nhưng lan Thanh Ngọc đã "giáng" xuống trần và bị rơi vào cái guồng máy khắc nghiệt của lịch sử: sự phân liệt giữa các chính đảng đã có tự nghìn xưa. Từ hai trăm năm, hai ngàn năm trước… những guồng máy tranh chấp quyền chính chưa bao giờ ngừng quay từ khi có loài người. Thanh nói với Ngọc:

"- Cái guồng máy ấy vẫn còn, còn mãi. Anh đã xem Đông Chu Liệt Quốc và Tây Hán chứ?

- Có, tôi có đọc nhiều lần.

- Đấy, anh xem cái guồng máy đã có từ mấy nghìn năm trước. Anh chắc còn nhớ Vệ Ưởng nước Tần, Phạm Lãi với Văn Chủng nước Việt, Hàn Tín với Trương Lương đời Tây Hán. Vệ Ưởng, Văn Chủng, Hàn Tín đều bị cái guồng máy nó nghiền nát nhừ cũng như nó sẽ nghiền anh Ninh và cả anh nữa.[...] Anh bị lôi cuốn vào đó và tôi cũng vậy"[58].

Cái "guồng máy" có khả năng nghiền nát tất cả: nó lôi cuốn con người vào vòng tội ác không mảy may ngần ngại, hối hận. Nhất Linh cũng ở trong cái tròng như thế: bởi vì một khi đã bước vào chính trị, thì không thể thoát ra được. Văn chương và cách mạng đối với Nguyễn Tường Tam Nhất Linh như Ngọc và Thanh, như lan Thanh Ngọc, cuốn hút nhau trong môi trường mê hoặc đến hơi thở cuối cùng.

Khi họ biết đích xác nhiệm vụ phải loại trừ nhau, họ đi với nhau một đoạn đường cuối về Hà Giang, gọi là vọng quốc, và họ đã tìm ra "chân lý":

"Ngọc cho cuộc đi với Thanh về Hà Giang như một cuộc tìm kiếm thiên thai; thân chàng dù có bị guồng máy nghiến nát nhưng linh hồn chàng theo lời Thanh vẫn thường nói, sẽ tan đi như hạt muối trong nước hay biến thành một niềm vui hòa loãng trong cái mênh mông của hư vô. Phạm Lãi, Tây Thi chết đã mấy nghìn năm nhưng tâm hồn hai người vẫn còn tồn tại trong tâm hồn nhân loại"[59].

Bỏ mặc những mưu toan chính trị, thành hay bại mà họ đã lao vào, tâm hồn Phạm Lãi Tây Thi mới chính là cội rễ của tình yêu, là ngôn ngữ văn chương, là cái tâm con người, và cái này không thể bị diệt, nó sẽ sống ngàn năm, sống mãi mãi:

"Thanh để hết cả tâm hồn khe khẽ ngâm, tiếng thoảng nhẹ như hơi gió trong đêm trăng sương mù:

Đêm sương thoảng tiếng ai trong gió,

Lòng hỏi lòng biết có hay không?

Hay chăng tiếng vọng mơ mòng

Của lòng mình nói cho lòng mình nghe…

Tiếng ngâm rứt đã từ lâu nhưng dư âm còn vang mãi trong hồn Ngọc. Tự nhiên chàng nghĩ đến hôm đi chơi hồ, Thanh ngâm bài phú Xích Bích và nói bây giờ còn đâu Tào Tháo, Chu Du nhưng câu thơ hay của Tô Đông Pha và ánh trăng trong trên dòng Xích Bích thì còn mãi mãi. Chàng nghĩ Thanh và chàng có thể lát nữa sẽ chết, Việt Quốc, Việt Minh ám hại lẫn nhau cũng không còn nữa. Nhưng tiếng ngâm của người yêu thì như mãi mãi bàng bạc trong không gian của những đêm sương lạnh"[60].

Câu này chính là chúc thư của Nhất Linh.

Lời nhắn rõ ràng: tất cả mọi thứ anh hùng rồi cũng sẽ chết, mất hút trong hư vô, nhưng dư âm một câu thơ hay có khả năng hồi sinh, tái tạo, mỗi lần có người đọc nó.

Khả năng tái sinh, không một loại sinh trùng nào có, kể cả con người.

Khả năng tái sinh, chỉ mình con chữ nắm quyền sở hữu.

Khái Hưng, Nhất Linh, hai văn hào, đã tạo ra Tự Lực Văn Đoàn đã xây dựng nền móng văn học Việt Nam hiện đại, đã kiên cường chống phá chế độ thực dân từ nguồn, và đã sa vào cảnh nội chiến tương tàn, với tư cách nạn nhân và thủ phạm.

Tôi đã nói đến chúc thư của Khái Hưng trong vở kịch Khúc tiêu ai oán là triệt hạ căm thù.

Và chúc thư của Nhất Linh trong Giòng sông Thanh Thủy là rời bỏ guồng máy.

Khái Hưng, Nhất Linh, trong tác phẩm chót của họ, để lại cho hậu thế lời dặn: tình yêu và văn chương sẽ cứu vớt con người.

Hết

Thụy Khuê

Bắt đầu viết tháng giêng 2020

Viết xong, ngày 10-1-2022

Paris – Yên Cơ (Les Issambres)

thuykhue.free.fr

[1] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, trang 51 và 53.

[2] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, Hồi ký phần II, Thạch Ngữ, California, 2000, trang 50.

[3] Theo bản Tin tức hàng tuần, trên báo Chính Nghiã, số 28, 16-12-46.

[4] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 105.

[5] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 114. Xem chương: Từ hội nghị Đà Lạt đến cuộc lưu vong 1946.

[6] Nguyễn Tường Bách viết: "Lúc tôi đến [Quảng Châu, đầu tháng 7-47] thì các anh Tam Long đã ra Hong Kong", Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, trang 72.

[7] Bức thư mật này, Nguyễn Tường Bách không ghi rõ viết ngày tháng nào.

[8] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, trang 67.

[9] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, trang 94-95.

[10] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, trang 68.

[11] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, trang 84.

[12] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 249.

[13] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 249-250.

[14] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 250-251.

[15] Nguyễn Khắc Ngữ Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 251, Philippe Devillers, Histoire du Viet-nam de 1940 à 1952, Seuil, Paris 1952, trang 409. Hội nghị kết thúc bằng biểu quyết:

"1- Triệt đổ ủng hộ ông Bảo Đại, đứng ra thương thuyết với Pháp để thực hiện độc lập và thống nhất quốc gia.

2- Danh từ "Hoàng đế Bảo Đại" được sử dụng trên địa hạt ngoại giao".

Biểu quyết thứ 2 này có nghĩa là Hội nghị công nhận Bảo Đại vẫn còn là Hoàng đế của nước Việt nam, là người có thẩm quyền đứng ra lập Chính phủ Quốc gia và điều đình với người Pháp".

[16] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 254; Bảo Đại, Con rồng Việt Nam trang 287-288.

[17] Nguyễn Khắc Ngữ, Các đảng phái quốc gia lưu vong 1946-1956, trang 255.

[18] Nguyễn Khác Ngữ, Bảo Đại, các đảng phái quốc gia và sự thành lập Chính quyền Quốc gia, Tủ sách nghiên cứu sử địa, Montréal 1991, trang 1-3.

[19] Theo Đoàn Thêm, 1945-1946, Việc từng ngày, Hai mươi năm qua.

[20] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, Thạch Ngữ, California, 2000, trang 69-70.

[21] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, trang 85.

[22] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, phần II, t. 88- 89-90.

[23] Theo Hoàng Hưng, trong bài Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghê thuật (mạng Văn Việt) trên giấy tờ ghi ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1912, nhưng ông Trí và người thân đều cho biết ông sinh năm 1908 (Kỷ Dậu) tại làng An Tràng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây, thuộc Hà Nội). Ông mất ngày 20-6-1993, tại Sài Gòn. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí là con cụ Nguyễn Gia Cư, hai đời làm phẩm phục cho triều đình. Theo họa sĩ Nguyễn Xuân Việt, gia đình có 10 người con, 4 trai, 6 gái, theo thứ tự như sau:

1- Bác Ba (tên là Ba, con gái đầu lòng). 2- Ông Nguyễn Tam Phúc (con thứ nhì, các con ông Phúc theo Việt Minh). 3- Ông Nguyễn Gia Tường (gọi là bác Giáo, giáo sư trường Bưởi). 4- Bác Hai (chị gái). 5- Bác Hồi (chị gái). 6- Bác Khách (chị gái). 7- Bác Huân (chị gái, tên chồng). 8- Bác Tám (chị gái, mất sớm). 9- Họa sĩ Nguyễn Gia Trí. 10- Kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức).

[24] Trương Bảo Sơn, Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ người chiến sĩ, Thế Kỷ, California, 2004, t. 71-72.

[25] Trương Bảo Sơn, Tiếc thương Nguyễn Gia Trí, Thế kỷ 21, Xuân Ất dậu, tháng 1 và 2/2005, t. 25.

[26] Nguyễn Thị Vinh, Nhất Linh và Xóm Cầu Mới, Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, t. 91.

[27] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, t. 179.

[28] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, Hồi ký phần II, Thạch Ngữ, California, 2000, t. 50.

[29] Phạm Giao là con cả học giả Phạm Quỳnh, sinh ngày 17-12-1911, kết hôn với và Nguyễn Thị Hy là con gái học giả Nguyễn Văn Ngọc. Về sau bà Hy làm vợ ông Trần Huy Liệu.

[30] Nguyễn Tất Đạt, Bố tôi họa sĩ Nguyễn Cát Tường, mạng: sachxua.net, ngày 1-8-2009.

[31] Nhất Linh, Cúc xưa, Văn Hóa Ngày Nay, số xuân 1959, in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ người chiến sĩ, t. 198-199.

[32] Đoàn Thêm, 1945-1946, Việc từng ngày, Hai mươi năm qua, trang 45.

[33] Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ anh Nhất Linh, in trong sách Nhất Linh, người chiến sĩ, người nghệ sĩ, t. 65.

[34] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, Phần II, trang 118.

[35] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, Phần II, trang 108.

[36] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, Phần II, trang 117- 122.

[37] Trương Bảo Sơn, Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 73.

[38] Lời nhà xuất bản Phượng Giang (Nguyễn Tường Thiết) in trong phần Phụ lục Xóm Cầu Mới, quyển 2, bản chụp in lại tại Hoa Kỳ.

[39] Trương Bảo Sơn, Triết lý tuyệt hảo trong cuộc đời của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Văn, số 14, Tưởng niệm Nhất Linh, 7/7/64, t. 23.

[40] Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ anh Nhất Linh, in trong Nhất Linh, người chiến sĩ, người nghệ sĩ, t. 65.

[41] Trương Bảo Sơn, Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 74.

[42] Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh cha tôi, Văn Mới, 2006, trang 13, 16, 17.

[43] Trương Kim Anh, Tưởng nhớ về Nhất Linh, Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, t. 154.

[44] Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh cha tôi, t. 19.

[45] Nguyễn Tường Thiết, Thuyền câu trên sông Cowlitz, trong Căn nhà An Đông của mẹ tôi, Văn mới 2012, t. 65.

[46] Trương Bảo Sơn, Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 74-75.

[47] Trương Bảo Sơn, Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 76.

[48] Nguyễn Tường Thiết, Về lần tái bản năm 2003, in trong Giòng sông Thanh Thủy, phần Phụ Lục, Văn Mới, California, 2003.

[49] Nguyễn Tường Thiết, Ga Thạch Long, in trong Nhất Linh cha tôi, trang 16.

[50] Độc trôi đồng bào: Sự ác độc (do tác giả gây ra) nhiều đến nỗi làm trôi ngập nhiều người (chú thích của dịch giả Chương Thâu).

[51] Phan Bội Châu, Tựa cuốn Tự Phán, in trong Hồi ký Phan Bội Châu niên biểu, Nxb Văn Nghệ, TP. Hồ Chí Minh, 2001, trang 43).

[52] Võ Phiến, Đọc bản thảo của Nhất Linh, in trong cuốn Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 56.

[53] In trên Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, tại Sài Gòn, từ số 9 đến số 11. Xem chương: Đời sống cách mạng Việt Nam ở Trung quốc.

[54] Trích bài Cảm nhận Văn Cao của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hợp Lưu số 8 (tháng 12-1992), số đặc biệt Văn Cao, trang 49.

[55] Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thủy, Văn Mới, California, 2003, trang 69-70.

[56] Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thủy, trang 130.

[57] Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thủy, trang 143.

[58] Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thủy, trang 193-194.

[59] Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thủy, trang 295.

[60] Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thủy, trang 361-362.

 Nguồn: Văn Việt