Song Thao
ĐỌC “BỐN BIỂN LÀ NHÀ”
CỦA NGUYỄN LÊ HỒNG HƯNG
“Tứ hải gia huynh đệ” là câu nói hào sảng pha chút
giang hồ mà chúng ta thường dùng. “Bốn Biển Là Nhà” cũng y như vậy. Người có thể
hãnh diện nói câu đó không ai hơn nhà văn Nguyễn Lê Hồng Hưng. Tôi chú ý tới
cái tên tương đối còn mới mẻ này trên tờ Thế Kỷ 21 thuở còn ra báo giấy. Chủ
bút cuối cùng của Thế Kỷ 21 trước khi đình bản là nhà văn Phạm Phú Minh. Có lẽ
ông là người đã khám phá ra Nguyễn Lê Hồng Hưng từ những ngày xa xôi đó. Sau
này, khi hết duyên với báo giấy, ông tiếp tục báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ, truyện
của Nguyễn Lê Hồng Hưng vẫn xuất hiện đều đều.
Nguyễn Lê Hồng Hưng là người miệt mài đi biển. Tôi đồ
chừng anh đã đi tới hơn bốn biển trong suốt bốn chục năm rong ruổi trên các tàu
chở hàng viễn dương của Hòa Lan. Thực ra anh đã xuôi theo các biển Tây Âu – Bắc
Á, từ Đại Tây Dương qua Bắc Hải và biển Baltic, sang tới tận phía Nam của Bắc
Băng Dương. Thế giới của anh xa lạ với thế giới của chúng ta. Chúng ta đã có
nhiều nhà văn, nhà thơ nói tới những sinh hoạt trên những chiến hạm. Họ mặc đồng
phục, tuân hành một thứ kỷ luật khắt khe và là những người lính có cùng chung một
tổ quốc. Những cái chung đó khiến chúng ta có thể mường tượng đời sống trên chiến
hạm như sinh hoạt trong một trại lính.
Đời sống trên một tàu chở hàng viễn dương rất khác. Hỗn
tạp và phức tạp hơn nhiều. Theo như tôi được biết, chúng ta chưa có nhà văn nào
sống và viết về sinh hoạt chộn rộn trên những con tàu êm ả lướt sóng này. Không
có những bộ đồng phục ka-ki, không có những quy định nhà binh khe khắt, không
có chung một quốc tịch, họ tạo thành một cuộc sống riêng chỉ những người trong
cuộc mới rõ. Nguyễn Lê Hồng Hưng là một người trong cuộc. Trên một tàu chở hàng
viễn dương, nhân viên được chia thành hai loại: thủy thủ và cấp điều hành gọi
là officer. Nhà văn Nguyễn Lê Hồng
Hưng là chef cook, thuộc loại ăn trên
ngồi trốc. Nhưng khác với cấp thuyền trưởng, thuyền phó, bếp trưởng Hưng tiếp
xúc hàng ngày với mọi người trên tàu. Ai cũng có cái dạ dầy và cần phải được
làm đầy hàng ngày. Chef cook Hưng nắm
dạ dầy của mọi người trên tàu, không phân biệt…giai cấp. Và, may mắn thay, đứa
con của biển Cà Mau là người không phân biệt giai cấp. Anh chơi với tất cả mọi
người. Cuộc sống và con người trên những hải đảo trôi được anh vẽ lại một cách
trung thực trong các truyện của anh bằng một giọng văn giản dị nhưng khá dí dỏm,
sâu sắc.
Trong một cuộc điện thoại viễn liên, anh cho tôi biết:
trung thực là tiêu chí viết của anh. Đọc 17 truyện ngắn trong cuốn “Bốn Biển Là
Nhà”, tôi thấy rõ giọng văn thiệt thà, hầu như không một chút hư cấu. Trong bốn
chục năm hải hành, những tiếp xúc, va chạm với nhiều quốc tịch khác nhau trên tầu
là những kinh nghiệm lý thú mà chúng ta ít khi biết tới.
Thủy thủ phần lớn là người Indonesia. Họ là hạng thấp
cổ bé miệng nhất trên tầu. Nhưng họ là những bầu bí hay kèn cựa nhau. Ma cũ bắt
nạt ma mới. Với tấm lòng nhân ái của một người sống với biển, từ những ngày thơ
ấu quanh biển ở miệt cùng đất nước tới những năm lênh đênh trên sóng nước đại
dương, tôi nghĩ anh đã học được bài học bao dung của biển cả. Anh nhìn thấy ngay mối tình đồng hương lỏng lẻo của
những thủy thủ này. “Trước kia tôi còn thấy
tội nghiệp những người mới xuống bị mấy người làm lâu năm ăn hiếp, nên tôi thường
tìm cách giúp đỡ và bênh vực, nhưng lâu dần tôi khám phá ra thủy thủ người
In-Đô phần đông mới xuống làm thì hiền như cục bột, nhưng khi quen nước quen
cái rồi thì lên mặt hống hách, hà hiếp đồng hương và hay thường xuyên nói dối.
Những chuyện tương tợ cứ lập đi lập lại hoài riết rồi nhàm, làm cho tôi xem thường”.
(Sáng Nắng Chiều Mưa).
Sống trong con tầu ngổn ngang nhiều quốc tịch, mỗi người
như đại diện cho đất nước của mình. Màu sắc của cuốn passport đậm nhạt khác nhau. Nhưng màu da dễ nhìn thấy hơn. Tuy thuộc
hàng chức sắc trên tàu, màu da vàng của tác giả đập vào mắt người khác trước hết
dù anh mang passport Hòa Lan. Anh
thân cận với đám thủy thủ hơn dân da trắng.
Da trắng có người Ukraine. Phần đông họ sống rất kỷ luật,
ăn uống xong dọn dẹp đàng hoàng. Công dân của anh hàng xóm to xác là người Nga,
trái lại, ít được các sắc dân khác ưa. Bốn biển là nhà nhưng là một cái nhà nhiều
dòng con. Có đứa này đứa nọ. Chuyện kênh
nhau là chuyện dĩ nhiên. Dưới con mắt của một nhà văn, những khác biệt này như
những nguyên liệu ròng được anh đưa vào truyện một cách thông minh.
Bếp trong một gia đình đã nhức đầu nhức óc vì khẩu vị
của mỗi người, bếp trên tầu đúng là làm dâu trăm họ. Dân tứ xứ, trăm người trăm
cái miệng nhóp nhép khác nhau, biết theo ai bỏ ai. Vậy nên cứ ngoan ngoãn bếp cho
chi ăn nấy. Thủy thủ thì chẳng dám đòi hỏi chi, chỉ những chức sắc như truyền
trưởng, thuyền phó, sếp thợ máy mới nhì nhằng nhiều chuyện. Nhiều chuyện với bếp
chỉ tổ thiệt cái thân. Một anh sếp thợ máy người Hòa Lan cậy thế đòi hỏi, chê
lên chê xuống thức ăn của nhà bếp. Hoặc quá quắt hơn, dở giọng du côn mắng chửi
bếp.“Gặp những đầu bếp có lương tâm chỉ
phàn nàn đôi chút rồi thôi, chớ còn gặp những đầu bếp tâm tánh không bình thường
mà chọc giận thì bếp sẽ trút cơn giận bằng cách trộn đồ dơ vô thức ăn rồi dọn
cho ăn. Có một đầu bếp mà trong công ty ai cũng khen ông có bàn tay vàng vì ông
pha chế thức ăn rất ngon. Trước mặt đám officer lúc nào ông cũng vui vẻ, thưa
thưa dạ dạ. Nhưng người nào xúc phạm tới ông thì trước sau gì cũng bị ông cho
ăn đồ bậy bạ. Tánh tình ông rất trào phúng, mỗi khi lên hội quán ông hãnh diện
kể lại cho đồng hương của ông chuyện ông cho những thằng officer nào hống hách
ăn những món cực kỳ dơ dáy do ông tự nghĩ ra. Hôm cuối năm, trong lúc ông bận rộn
lo cho bữa tiệc, tên thợ máy vô bếp đòi này đòi nọ và nặng lời với ông làm ông
tức giận, ông bèn lấy tinh trùng của ông trộn vào sốt whiskey dọn ra trong bữa
tiệc Giáng Sinh. Những đầu bếp khác khi bực mình chỉ nghĩ ra những cách thông
thường hạ cấp như khạc nhổ vào thức ăn dọn ra cho ăn hoặc múc nước trong bồn cầu
pha cà phê, pha trà đem ra cho uống. Còn ông thì cao cấp hơn, pha chế chỉ có
món sốt whiskey mà tốn hao bao nhiêu năng lượng. Nhìn mái tóc bạc phơ, thân thể
ốm nhom ốm nhách, tôi đâm nghi ngờ cho cái tâm thần và ái ngại cho cái sức khỏe
của ông, bảy tám tháng trời xa nhà, xa vợ, hễ mỗi lần tức giận là mỗi lần ông
trút hết năng lượng vô món ăn để phục vụ cho người khác, cứ như vậy tiếp tục
cho tới ngày về thì còn sức lực đâu nữa để phục vụ cho bà nhà”. (Bốn Biển
Là Nhà).
Bữa tiệc ngày lễ cuối năm là ngày trổ tài của bếp. Bếp
Nguyễn Lê Hồng Hưng luôn có lòng với đất nước nên, Giáng Sinh năm đó, bếp đãi
món Việt Nam để giới thiệu với năm châu bốn biển đặc sản quê nhà. Dĩ nhiên theo
truyền thống thì phải có chú gà tây. Nhưng bên cạnh chú gà tây là chả giò, gỏi
cuốn, tôm chiên bột sốt chua ngọt và một nồi phở hai chục lít. Xong bữa tiệc, mọi
thứ sạch bách trừ con gà tây truyền thống. Chú gà bị thất sủng hoàn toàn. Đã
không được chiếu cố vào đêm Giáng sinh mà cũng chẳng ma nào rớ tới trong mấy
ngày sau đó. Cuối cùng anh bếp Việt Nam phải mang ra cho mấy người bốc vác dưới
bến cảng.
Trong thâm tâm tôi nghĩ trên tầu chỉ toàn đàn ông. Có
bóng hồng hiện diện chắc loạn. Nhưng tôi bé cái lầm. Trên tầu chở hàng viễn
dương có các nường làm việc. Khi có hai giống đối lập nhưng lại cần thân thiết
với nhau sẽ có nhiều rắc rối. Cái nhạy bén của một nhà văn đã khiến những dòng
chữ mô tả sự đối lập dịu hiền này sinh động hẳn lên. Nhất là số lượng của hai
bên quá chông chênh. Phe đực át phe cái. “Trên
tàu có hai cô gái, cô phụ máy tay chưn gân guốc, thân hình đồ sộ như trâu nước.
Tánh tình của cô rất vui vẻ, nhưng hay bày trò trêu chọc cánh đàn ông. Cô phụ
thuyền phó gầy gộc như cây khô, hỏng biết ngực có độn gì không mà lúc nào cũng
vun tròn như hai trái bưởi; má hóp, mỏ nhọn và hàm răng trên hay đưa ra ngoài,
được cái là cô sống rất kỷ luật, không ăn tạp như cô phụ máy, cô giải khát bằng
bia và thỉnh thoảng thay bữa ăn bằng rượu, mặt mày lúc nào cũng lầm lì, hiếm
hoi lắm mới thấy cô ta cười một nụ héo queo còn thua hoa tulip cuối mùa xuân”. (Duyên
Dáng Biển Khơi).
Hai bông hoa tulip cuối mùa, tuy là công trình kém chất
lượng của con tạo, cũng đủ khuấy rộn đời sống của những nam nhân trên tàu. Anh
thủy thủ Tây Ban Nha thường ngày dơ dáy, râu ria lồm xồm, mỗi bữa ăn tới năm bảy
tép tỏi sống, chẳng bao giờ biết đọc báo, nay bỗng sạch sẽ, râu tóc mượt mà, sực
nức mùi dầu thơm và thuốc cà nách, biết cầm tờ báo mỗi khi có một trong hai
nàng lướt qua cửa và bỏ hẳn thói quen ăn tỏi sống. Anh thủy thủ Tây Ban Nha này
không phải là người duy nhất bị bóng hồng bắt hồn vía. Ông thuyền phó hay láng
cháng tới gần phòng giặt khi Maria ôm giỏ đồ dơ vào giặt. Ông có tính ăn cắp đồ
lót của hai cô gái. Maria biết tỏng, chìa giỏ đồ chưa giặt ra chọc quê: “Mầy cần
cái nào thì cứ lấy, tao cho!”. Ông thợ máy già, như tiếc của trời, khi thấy con
nhỏ nói chuyện với ai thì ghen tức, sai nó làm việc này việc kia. Ngay con người
nghiêm chỉnh như tác giả cũng tự thú trước bình minh: “Mấy ngày đầu xuống tầu, sáng nào cũng vậy, điểm tâm xong, trước khi
làm việc nó vô phòng bếp chào tôi và nói ba điều bốn chuyện rồi mới chịu đi. Một
hôm tôi thấy bên mép miệng nó có dính một bệt kem đánh răng, tôi lấy giấy chùi
cho nó. Từ đó về sau, mỗi buổi sáng bên mép miệng của nó hổng dính kem cũng
dính mứt. Tôi lưu ý nó thì nó chu mỏ ra nhờ tôi chùi giùm. Tôi ngờ con nhỏ có
tình ý gì nên trong lòng tôi rạo rực, nhứt là lúc hừng đông tôi thường hay tơ
tưởng tới nó. Cho tới một sáng kia, tôi chùi miệng cho nó xong, nó kề sát mặt
vô tai tôi và kêu tôi ngó ra phía sau. Tôi ngoái lại thấy bên ngoài cửa kiếng
ba bốn cái đầu của thủy thủ lấp ló dòm vô, trong đó có cái đầu sói rọi của gã
Tây Ban Nha nữa. Chúng tôi phá lên cười. Cười người xong tôi mới giựt mình,
cũng may mà khám phá kịp thời, từ đó tôi bỏ tánh suy tư bậy bạ, nếu không thì
tôi cũng bị con nhỏ gài bẫy làm trò cho nó cười như mấy tên lấp ló ngoài kia”. (Duyên
Dáng Biển Khơi).
Thủy thủ lên bờ thì những vụ mặn mà còn muối hơn nữa.
Trăm ông thì đủ trăm trự nhậu nhẹt gái gú tại các hội quán. Chuyện chuốc rượu
hoặc ăn sương của các cô gái tại những bến cảng, nơi có các thủy thủ lâu ngày sống
cu ki dưới tàu thèm hơi đàn bà, là chuyện thường ngày ở…bến. Với lối viết tỉnh
táo đượm chút khôi hài, với văn phong trơn tuột của dân miền Nam, tác giả mô tả
một hoạt cảnh trong hội quán của thủy thủ: “Có
hai người đàn ông bao hai cô gái, bày tiệc bàn phía sau góc quán. Trong ánh
sáng lờ mờ, mỗi anh ôm chặt một cô, tay thọt vô váy mò mẫm và cũng chính bàn
tay đó khi cần rút ra bưng bia uống và bốc đậu phộng rang muối bỏ vô miệng nhai
ngon lành, sau đó thọt tay dính đầy muối trở lại chỗ cũ. Hai cô gái cứ thản
nhiên ngồi xuôi chưn, dạng háng uống champagne, miệng phì phà thuốc lá. Trò
chơi cứ tiếp tục tới giao thừa thì phần giữa háng của hai cô gái chắc cũng vừa
đủ mặn”. (Giao Thừa Xa Quê).
Một đêm giao thừa lạnh lẽo, tại Saint Petersburg bên
Nga, hai người Việt tình cờ gặp nhau. Một từ trên tàu xuống, một là gái tại hội
quán. Thường thì khi gặp khách Việt, các cô thường lảng tránh. Cô gái hậm hực: “Mấy người đi chơi bời mà làm như con nhà tử
tế lắm, lên giọng thầy đời dạy dỗ, khuyên nhủ em đủ điều, họ bươi móc chuyện
riêng tư, soi rọi từ lông tơ kẽ tóc, nói chuyện với họ em nghe như bị mắng vô mặt.
Em bán ba mà họ làm như em bán cả bốn ngàn năm văn hiến của họ vậy”.
Nhưng đó là một đêm cuối năm, đèn đuốc sáng trưng, nhộn
nhịp không khí lễ hội, hai người xa quê như hai linh hồn lạc lõng. Họ dựa vào
nhau, san sẻ với nhau chút tình quê. “Anh
nhìn người con gái, đôi mắt lơ là, vầng trán vài nét nhăn, đôi môi son mỏng,
trông cô có vẻ mệt mỏi nhưng nét đẹp của một thời vẫn còn phảng phất trên gương
mặt dạn dày gió sương. “Khuya rồi, uống hết rượu mình chia tay”. Cô gái giật
mình bấu cánh tay anh. “Anh không về với em sao?”. “Tôi sống trên biển quanh
năm, khi gần đàn bà những dồn nén trong người lâu ngày nó cứ chực trào ra”. Cô
gái nghiêng đầu tựa vai anh. “Thì anh cứ trút hết sự dồn nén của anh qua em”.
“Để làm gì?”. “Hy vọng có một đứa con cuộc sống em sẽ thay đổi”. (Giao Thừa
Xa Quê). Nhưng người thủy thủ vẫn tiếp nối bước chân lang bạt, không dừng lại
được, dù chỉ một đêm.
Ngoài cuốn “Bốn Biển Là Nhà” gồm 19 truyện ngắn tôi có
trên tay, Nguyễn Lê Hồng Hưng đã cho in hai cuốn trước đây: cuốn “Dòng Sông Sữa
Mẹ” vào năm 1994 và cuốn “Những Mảnh Đời Trôi” vào năm 2003. Hai cái tựa sách đủ
nói lên tấm lòng vời vợi với quê hương của anh. Quê nhà Cà Mau của anh dựa vào
biển. Cũng nước, cũng sóng, cũng mặn vị biển nhưng biển quê vẫn có chi khác với
biển mà anh đã sống cùng trong bốn chục năm qua.
Một sáng sớm, trên con tàu vượt Đại Tây Dương, nhìn
qua khung cửa kiếng, tác giả mường tượng như thấy biển quê. “Trời vừa sáng trắng thì mây đen lại kéo về
chuẩn bị cho cơn mưa, thời tiết thay đổi thất thường làm tôi tưởng nhớ tới quê
hương, lạ thật, lâu lắm rồi tôi mới có cảm giác nhớ quê. Quê hương tôi hướng mặt
ra biển, thường vào những buổi chiều đẹp, phía trời Tây nhuộm đỏ một màu, đây
là lần đầu tiên trong đời tôi thấy ráng đỏ lúc bình minh và trời chuyển cơn mưa
sáng gợi cho tôi nhớ lại đầu mùa gió nám và cũng là mùa tôm bạc rại. Nỗi nhớ
nhung chỉ thoáng qua tâm trí nhưng nó đã khiến lòng tôi xôn xao và lưu luyến buổi
sáng tuyệt vời”. (Vượt Đại Tây Dương).
Dù có “bốn biển là nhà” nhưng chỉ có một góc biển nho
nhỏ nơi cực Nam đất Việt mới đích thực là nhà!
SONG THAO
2/2022