Sunday, May 22, 2022

2439. DOÃN LIÊN Hoài Ziang Diu - Còn không chốn quay về


Ngồi nơi đây, thành phố Garden Grove, thời gian tháng 5 năm 2022, để quay về quá khứ thời 1976, 1977 đọc Tự Truyện của Hoài Ziang Duy – Còn Không Chốn Quay Về, để mà chiêm nghiệm nhiều điều trên cõi đời. Ngay từ truyện đầu tiên, Chuyện Người Năm Cũ, tác giả viết lại không gian Vườn Đào Tiên, tỉnh Cai Lậy, cho đến lúc giải tán cái trại này. Hoài Ziang Duy như đang quay một cuốn phim “document”, loại không chỉnh sửa, quay nhát gừng, cảnh này đến cảnh khác, cốt để người xem thấy rõ một cách chân thật không kỹ xảo điện ảnh, chuyện tù đầy sau ngày miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng Sản.

Tác giả Hoài Ziang Duy kết thúc Chuyện Người Năm Cũ bằng “Thế hệ con cháu sau nầy, chỉ biết sinh ra lớn lên nơi xứ người. Trả lời câu hỏi từ đâu, do đâu, lập thân lập nghiệp? Chắc chỉ vỏn vẹn một lời đáp đơn giản. Từ sau cuộc chiến Việt Nam.

Chừng đó thôi. Ai còn ai mất. Ai hiểu lòng ai?”

Đọc giả, thuộc hàng con cháu, đã thầm cám ơn ông Hoài Ziang Duy những điều không thể biết được, nếu không đọc ông. Ông bố của đọc giả cũng đã từng ở tù cộng sản (CS), những hai lần, cả hai lần đều bị giữ ở vùng miền Trung. Ông thụ án hơn mười hai năm tù, nhưng đến khi về với vợ con thì biệt không một câu chuyện nào ông nói ra. Cho nên bạn tù của ông kể lại những thủ đoạn của cai tù ở đây có khác với Cai Lậy, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Thật là nhiều điều đáng ghê tởm về CS!.

Tác giả Hoài Ziang Duy tính không viết xuống những điều mắt thấy tai nghe trong thời gian tù đầy, nhưng thấy lại: “Chuyện nầy tôi viết đã lâu, lúc mấy năm đầu đến Mỹ định cư, rồi xếp lại bỏ đó, do những thương tâm không muốn nhắc. Thời gian, lúc mà mọi người tưởng rằng đã quên. Tôi cũng sợ mình quên thật, nên lại đem ra tưởng nhớ những người năm cũ. Coi như chuyện đời xưa, xưa thật là xưa. Đọc để thấy lại lúc mình chưa già?”

Chính nhờ vậy chúng ta mới có được những chứng cứ thật một thời khi cộng sản lên ngôi.

Văn phong ông Hoài Ziang Duy rất thật, không làm dáng văn chương, có một chút khôi hài đen, có đôi khi câu chuyện không câu kết, mà cứ để lửng lơ để mặc độc giả tự cho kết luận. Có những đoạn thời gian là hiện tại, nhưng lại có câu chuyện quá khứ đan xen vào để bổ xung. Một kỹ thuật viết, có bố cục độc đáo khiến người đọc muốn và háo hức đọc tiếp.

Trại tù Đào Nguyên, thoạt nghe tên cứ ngỡ như chốn bồng lai cho các huynh đệ kết nghĩa kết tình với nhau. Thì ở nơi đây cũng anh em kết nghĩa với nhau đó, nhưng là những tù nhân đang ở cảnh khốn cùng tù đầy, phải đoàn kết với nhau để sống còn. Tù cộng sản. Chính quyền CS dùng khu nhà cho người bị phong cùi ở thời trước 1975, thị xã Cai Lậy, nhốt các người thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Nó thích hợp vì là khu tận cùng làng xã. Nó trở thành địa ngục thực sự khi triều cường của dòng sông Cửu Long lên xuống khiến nhà cửa được bao phủ bởi nước. Có lúc nước ngập lên mái nhà, người tù bị quản thúc tại đây càng thêm điêu đứng gian truân vì nước.

Thật là hay, khi cuộc sống quá ư khốn khổ thì con người lại tự chế ra được một cái gì để giải bớt đi cái khổ như bài thơ tù “… Lý rằng trên trời có chim bay, rừng có muông thú, dưới nước có cá lội. Chứng minh câu đất nước ta giàu đẹp là thế đó. Để khỏi mích lòng cá, anh em thăm viếng nhau, là cứ ở truồng nhảy xuống nước, khiến bạn tôi có mấy câu thơ rằng: Con cá lòng tong, lội vòng vòng, rỉa đâu không rỉa, rỉa nhằm thằng con.”

Lại còn cảnh oái oăm, người vợ đi lấy chồng khác, mang năm con giao lại cho chồng đang ở tù nuôi. Cái tình huống này mới là hay! Trại tù đã phải nuôi một miệng ăn của bố, nay nhận thêm năm miệng của năm con, tổng cộng tăng thành sáu. Chị vợ muốn đi lấy chồng khác ý rằng vô tù là có sẵn thứ để ăn, đâu hiểu rằng bốn mươi con người (40) chỉ có được một chén cơm, bằng một nồi cháo loãng! Thế rồi, kết quả là nhân vụ lũ dâng này, cả sáu bố con được tha về. Một câu hỏi bật lên trong đọc giả này: À thì ra đảng và cách mạng cũng có nhiều lòng từ đấy nhỉ? Từ thứ nhất là chấp nhận cho năm con vào ở với bố. Từ thứ hai là đã thả sáu người ra khỏi tù sớm hơn dự định. Vỗ tay!

Rồi lại có chuyện kể ở trại Chi Lăng miền núi, chị vợ dắt con đi thăm chồng ngày hôm trước, sáng hôm sau uống thuốc độc tự tử ở phía ngoài trại tù. Người chồng ra nhận mặt vợ và mang con vào cùng ở tù với mình. Thế là thằng bé được các tù viên dạy đọc Kiều ở tuổi lên năm!

Vẫn với chữ dùng của kẻ thắng cuộc “Lao động là vinh quang” được máu khôi hài đen của tác giả làm nổi bật lên cái ý nghĩa lố bịch như thế nào “Cái chữ lao động là vinh quang, như sợ ai giành. Anh nào cấp bậc, chức vụ nhẹ, thì được đi lao động. Làm ruộng thì hai người kéo một cái cày bắt ngang cổ, thay cho trâu bò. Đốn tràm thì vác từ rừng về, vác không nổi thì buộc vào cổ kéo lê dưới nước. Còn thành phần nguy hiểm thì ở tại chỗ, không được đi làm.” Đúng nghĩa là ĐƯỢC đi lao động.

Người dốt thích nói chữ hay thích đọc chữ, chuyện cả trại nhận là mình không biết đọc để dành cho cán bộ có chút chữ đọc thông báo. Tác giả kể bằng một giọng văn bình bình, dành phần kết cho đọc giả viết tiếp. Rồi đến chuyện bác sĩ Thành quân đội VNCH bị cùm vì tội chống đối cách mạng. Ông nói ban quản giáo đun sôi nước uống cho tù nhân để phòng bệnh đường ruột, thì được ghép tội bảo vệ người đang bị kỷ luật. Cũng do vì bác sĩ thuở ban đầu còn ngây thơ chưa hiểu thế nào là con người cách mạng.

Người miền Nam ngây thơ hay là tâm tính lành thiện của họ được thể hiện ở câu chuyện “… Sự nhầm lẫn này giống cái ý của bà già miền Nam phát biểu “Nhờ có Cách Mạng về, nên Việt Cộng đỡ pháo kích chết dân.” Rồi thì nhiều bài học bị học, người dân ngây thơ cũng đã hiểu rằng “Coi là phản động. Trước sau như một, có nghĩa là bây giờ cho đến về sau, không ai có quyền ý kiến, tự do phát biểu, ngoài đảng viên.”

Rồi đến chuyện thương tâm của tù nhân Quách Dược Thanh. Tác giả đã dùng một lối viết thật lạ, mang quá khứ về hiện tại, rồi hiện tại đi ngược về quá khứ, để rồi kết luận “Nghiệp báo” “Nhân – Quả” không sai. Chuyện kể: Anh Thanh đã từng thông suốt đường lối Mác Lênin, tự xét và xin vào đảng khi đang là tù nhân. Cán bộ nhà tù không tin và bị kết tội là khôn ngoan, giỏi lập luận. Anh tự vẫn nhưng được cứu sống để rồi trong một đêm, cán bộ trại dắt anh đi thủ tiêu bằng cách trấn nước cho đến ngộp thở chết ở một bờ mương sâu. Cái chết này được cán bộ rao truyền là tắm đêm và bị chết đuối.

Câu chuyện anh Quách Dược Thanh và nhiều mẩu chuyện trừng phạt khác không dừng lại mà được lưu truyền trong giới quản giáo các trại tù như những bài học cho bọn họ. Bài học lưu truyền đến vài thế hệ đàn em của giới cán bộ, đến tai một người cháu của tác giả. Mở toang ra sự thật, bàn tay nhúng chàm người giết tù nhân Quách Dược Thanh đền tội “… Một ngày như lệ thường, dẫn tù Miên đi đào đất bắt chuột ngoài đồng. Lúc chuẩn úy Bé, đang cúi đầu quì khum lưng ở hang chuột, bắt trọn gói không chia phần ai. Hình như có dự mưu, sắp xếp sẵn. Một cái cuốc của người tù Miên, từ phía sau đập bổ vào ót Bé, tấn công xong là cả bọn đào thoát chạy. Chuẩn úy Bé chỉ kịp hự lên một tiếng, rồi gục xuống, chết liền. Mắt mở trừng như nhìn thấy rõ oan khiên, nghiệp báo.

Sống và tin vào Nghiệp Báo, tin vào thuyết Nhân Quả thì con người không cần đến ngành luật, không cần đến luật sư biện hộ đúng sai. Vì chính Nhân Quả là đã rất chính xác, không sai trật một li nào về tội trạng, về kết tội và ra án. Nó đúng và chính xác và chỉ chờ thời gian hiển hiện lên mà thôi.

Nóng lòng mong muốn hoặc quên khuấy nó đi đều không được!

Kính mong tác giả Hoài Ziang Duy luôn được thân tâm an lạc cho dù cuộc đời có những khúc thật đáng rơi lệ.

California, ngày 12 tháng 5 – 2022

Doãn Liên

Đọc thêm: Truyện ngắn CÒN KHÔNG CHỐN QUAY Về