Wednesday, April 24, 2024

3340. Photography: ĐẬP ĐỒNG CAM (Tuy Hòa, Phú Yên) - Photo by Nguyễn Hữu.


ĐẬP ĐỒNG CAM (Tuy Hòa, Phú Yên)
Photo by Nguyễn Hữu

3339. NGUYỄN ĐỨC NHÂN Ba bài thơ




LỜI XIN LỖI. CHÂN TÌNH

 

Em.  mời tôi

đến tắm gội trong giấc mơ em -- lời mời

trân trọng.  đẹp lòng hoa cỏ

 

Chân tình.  chúc mừng 

giấc mơ em.  long lanh

 

Tôi.  tôi chưa thể

cất bước ra đi khỏi túp lều.   

ánh trăng xưa.  đêm qua.  vẫn về

nhìn qua cửa sổ.   khuya

 

CƠN MƯA.  VỪA TẠNH ÁNH MẮT

 

Cơn mưa.  vừa tạnh ánh mắt

Bầy chim rừng. lơ đễnh

đánh rơi tiếng hót trong veo.  rơi.   rơi vào

tâm hồn con suối nhỏ

 

Róc rách là ngôn ngữ của nước

Len lỏi chảy vào tim tôi.  xanh

 

Tiếng suối róc rách và

tiếng hót chim rừng.  đang

viết bản tình ca trên  

đường cong bầu trời tôi.  thoảng hương

năm tháng cũ

 

MƯA ĐÊM

 

Đêm.  vang vang tiếng chân mưa. 

tâm hồn đêm.  tối mịt.  cỏ thích thú

Chường mặt qua cửa sổ đêm.  tôi

hứng những hạt mưa.  mát lạnh.  đã

được cánh rừng ca ngợi

 

Gắn cây nến vào lòng chiếc đĩa sành

được vinh danh.  cây nến

đội chiếc mủ lửa.  nhọn.  đôi mắt

thông thái.  đang.  trao đổi với bống tối

kinh nghiệm viết xuống

 

Cây nến nóng bỏng.  nhễ nhại tâm tư màu

đỏ hồng.  đọng trong lòng chiếc đỉa

Đó.  sức chịu đựng cao quý.  đêm rất thơ

 

Đỉnh sọ tôi.  không thể

phát sáng cùng cây nến

Đỉnh sọ tôi.   phát sáng theo phong cách

đám mây.  soi bóng vào đầm nước.  mùa hạ

nắng nín thở

 

Đôi khi.  đỉnh sọ tôi.  nhấp nháy ánh mắt

các tinh tú.  trên nền đêm trầm tư

 

Kéo đắp cơn mưa đêm kín người.  rồi

tôi ngủ quên. dường như thế

Tôi mơ cùng giấc mơ  của những chiếc bình gốm.  chúng

cười mãi không bao giờ

mím miệng.  môi đầy bụi

 

NĐN

2024

Tuesday, April 23, 2024

3338. NGÔ THẾ VINH Đến với LINH BẢO từ GIÓ BẤC đến MÂY TẦN




Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Nguyễn Du

Sau các nhà văn nữ tiền chiến như Thuỵ An, Mộng Sơn của thập niên 1940s, Linh Bảo và Nguyễn Thị Vinh là hai nhà văn đi trước thế hệ đông đảo các nhà văn nữ của thập niên 1960s về sau này như Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Trùng Dương, Trần Thị NgH...

Linh Bảo là một tên tuổi văn học của Miền Nam từ những năm 1950s. Các tác phẩm của Linh Bảo được lần lượt xuất bản tại Miền Nam từ 1953 tới 1975.Chỉ có Mây Tần là tuyển tập đoản văn duy nhất được xuất bản ở hải ngoại (1981). Sau 1975, không có một tác phẩm nào của Linh Bảo được in ở trong nước.

TIỂU SỬ

Nhà văn Linh Bảo, tên Võ thị Diệu Viên, sinh 14 tháng 4, 1926 trong một gia đình quan lại triều đình Huế: cha Võ Chuẩn nguyên tổng đốc Quảng Nam, mẹ gốc hoàng tộc Tôn Nữ Thị Lịch. Từ thời rất trẻ, Linh Bảo đã nuôi tham vọng được đi du học, rời xa gia đình sớm, sống lưu lạc qua nhiều quốc gia ngoài Việt Nam: Trung Hoa (Nam Kinh, Quảng Châu), Hương Cảng, Anh, Pháp, và Mỹ.Linh Bảo còn có hai tên khác: Lại Cẩm Hoa là tên trên chiếc vé xuống tàu vượt biển sang Hương Cảng, Vũ Trung Thư / Mo Chung Shu là tên ghi danh đi học ở Nam Kinh và Quảng Châu. Các bức thư nhà văn Nhất Linh gửi Linh Bảo khi còn ở Hương Cảng đều gửi với tên Lại Cẩm Hoa. [Hình II]

Mới xong năm thứ hai (1947-1949) Đại học Tôn Trung Sơn [do tôn kính người Hoa không gọi tên Tôn Dật Tiên / Sun Yat Sen University], thì Hồng quân của Mao Trạch Đông chiếm toàn Hoa Lục 1950, Linh Bảo một lần nữa từ Quảng Châu chạy tỵ nạn sang Hương Cảng. Tại đây, cô đã làm mọi việc để kiếm sống: từ phụ tá nha sĩ / dental tech tới lồng âm tiếng Việt cho các bộ phim Tàu đang thịnh hành thời bấy giờ.

Năm 1951, Linh Bảo lập gia đình với một người Hoa mang quốc tịch Anh, và trở thành công dân Anh do cuộc hôn nhân này. Bút hiệu Linh Bảo, có nguồn gốc rất đơn giản, đó chỉ là tên người chồng Trần Linh Bảo / Ling Po Chan và bút hiệu ấy gắn mãi với văn nghiệp của chị trong văn học sử Việt Nam.

Đến 1954, khi Lãnh Sự Quán Việt Nam Cộng Hoà mới được thành lập, Linh Bảo là người Việt Nam hiếm hoi lúc đó biết tiếng Quảng Đông, tiếng Quan Thoại, tiếng Anh và dĩ nhiên cả tiếng Việt, cô được tuyển làm nhân viên của toà Lãnh Sự Việt Nam tại Hương Cảng. Làm việc tới 1957, trở về nước và chỉ sau 2 năm, 1959 Linh Bảo lại chọn một cuộc sống xa quê nhà. 



HÌNH I_ nữ sinh viên Vũ Trung Thư (Linh Bảo)
tại Đại Học Tôn Trung Sơn, Quảng Châu, Trung Quốc
[nguồn: do Linh Bảo cung cấp]

Từ Hương Cảng, qua Pháp rồi qua Anh một thời gian, cuối cùng Linh Bảo chọn định cư ở Mỹ sau khi được tuyển dụng vào giảng dạy môn Việt ngữ 14 năm [1962-1976]tại trường Sinh ngữ Quân đội Mỹ / Defense Language Institute, Monterey, California cho đến khi ngôi trường bị giải thể sau Chiến tranh Việt Nam. 

Linh Bảo hiện sống tại Nam California.

Tác phẩm:

- Gió Bấc, truyện dài, Nxb Phượng Giang 1953
- Tầu Ngựa Cũ, tập truyện ngắn, Nxb Đời Nay 1961
- Những Đêm Mưa, truyện dài,Nxb Đời Nay1961
- Những Cánh Diều, tập truyện ngắn, Nxb Trí Đăng 1971
- Mây Tần, tuyển tập đoản văn,Nxb Việt Nam Hải Ngoại 1981
     

Sách Nhi đồng:

- Chiếc áo nhung lam, Sách Hồng, Nxb Đời Nay 1953
- Con Chồn Tinh Quái, truyện Nhi đồng, Nxb Ngày Mới1967

Tác phẩm Tàu Ngựa Cũ được trao Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1961.[Hình V] Trừ truyện dài Gió Bấc và truyện nhi đồng Chiếc áo nhung lam được in từ 1953, các tác phẩm chính của Linh Bảo đều được xuất bản trong thời kỳ 1954-1975.

Đọc tiếp...

TIN BUỒN Nhà văn Linh Bảo qua đời


Monday, April 22, 2024

3336. ĐẶNG MAI LAN Chim lệch đường bay từ thuở ấy.

Sông Seine (Paris) - Ảnh Phạm Cao Hoàng


Paris trong tôi là hình ảnh những đoạn cầu lừng lững trên sông, ngăn chia khu phố, kết nối những con đường; là những pho tượng được dựng ở mọi nơi với nhiều nhân dáng, những hình tượng rạng danh lịch-sử và nền văn-hóa của đất nước này; là ngọn tháp chọc trời cao ngất gọi mời những bước chân du khách háo hức được bước lên tầng lầu cao nhất của kỳ quan thế giới. Và có thể ai đó cũng như tôi, sẽ nhận ra cái quyến rũ đích thực không từ những song sắt lạnh lẽo kiên cố, đã được rào chắn kỹ càng để tránh mọi bất cập rủi ro. Sự quyến rũ chính là những không gian bao la hiển hiện toàn cảnh một Paris lộng lẫy. Tôi đã có dịp được làm việc bên trong ngọn tháp này và nhận ra điều đó.

Ngọn tháp, những nhịp cầu trên sông, những đoạn cầu ngắn dành cho xe điện băng qua phố, những pho tượng, hay những trụ đèn cổ xưa tôi hằng thấy… Tất cả là một màu xám lạnh, nhưng chúng biết vui-buồn theo không gian, thời tiết của bốn mùa.

 

Tôi đã đứng trong sương sớm nhìn Paris khoác áo sương mù. Nhìn giòng sông, nơi ven bờ có những con tàu nằm yên ngủ. Tôi đã đặt tay lên những vai cầu lạnh buốt, ngắm những làn khói mong manh lãng đãng qua bao đôi mắt đèn đêm thao thức, chờ rạng đông tiễn biệt.

Paris, "mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ"

Paris, "Mai anh về giữa bến sông Seine, anh về giữa một giòng sông trắng. Là áo sương mù hay áo em"(1)  

Paris, "Tuyết rơi mỏng manh buồn, ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc…" (2)

 

Paris đã đi vào thi-ca từ những năm đầu của thập niên 50. Những bài thơ được phổ nhạc đã lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia và mãi mãi. Nhưng tôi yêu Paris những ngày mưa, những chiều tan sở, ngồi trong lòng xe nhìn ra bên ngoài mây trời xám ngắt, mưa lướt thướt trên sông, trên những cây cầu. Cái vẻ đìu hiu ấy luôn cho tôi những cảm giác buồn bã, trống vắng. Tất cả mang một vẻ ảo não…như một ngày cuối năm, năm cùng tháng tận của một đời sống buồn tênh.

 

Hãy kể đến những hào nhoáng của khu thị tứ Paris, hiển hiện nơi các cửa hiệu thời trang tấp nập những du khách nước ngoài. Trong một buổi mua sắm, một du khách Trung Hoa đã có thể bỏ tiền mua những sản phẩm mà trị giá của nó bằng giá của một căn chung cư nho nhỏ. Hay còn những ai khác tôi chưa được biết. Có lẽ vì thế, nên cửa tiệm nào cũng có nhân viên bán hàng người Á-châu, thường là người Trung Hoa hay Nhật Bản. Sẽ là một ưu điểm, nếu những nhân viên này biết nói tiếng mẹ đẻ của mình.

Kinh tế của đất nước này có thể bị suy thoái từ một nền kỹ nghệ nào đó, nhưng thời trang thì nhất định không thể lung lay. Dù chỉ là một người thợ, tôi có chút may mắn được hòa nhập với cả trăm nhân viên trong một vài ngày làm fitting, shooting để chuẩn bị cho một đêm trình diễn thời trang, quảng cáo trên những tạp chí.

Được nhìn ngắm những người mẫu đi qua-đi lại dưới bao đôi mắt quan sát của những nhà thiết kế, những nhiếp ảnh gia; được cầm trong tay vài ba thứ quần áo mà tôi biết ai sẽ khoác chúng lên người cũng là một điều thú vị. Không chỉ là một diễn viên lừng danh của nền điện ảnh Pháp, hay một cô ca sĩ đến từ Hoa Kỳ trình diễn, mà phải kể đến vị "Đệ Nhất Phu Nhân". Đệ nhất mà! Để không trùng với những trang phục mà một khách hàng giàu có nào đó có thể sẽ mua, người cố vấn thời trang của bà mệnh phụ đã yêu cầu đám thợ chúng tôi phải làm khác đi kiểu mẫu.

Bảo sao đã đến tuổi được nghỉ ngơi nhưng tôi vẫn cứ đi làm, đam mê với công việc!

Tại sao tôi lại không viết ra những gì trong cuộc sống khá linh động của mình. Viết về một kinh thành bốn mùa đầy những sắc thái thơ mộng trên những nẻo đường. Hay viết về những ngày phố đầy lửa khói bạo loạn bởi những người biểu tình chống đối, đòi cải cách xã hội, mà những cửa tiệm dành cho giới thượng lưu thường là mục tiêu cho những kẻ quá khích trút cơn phẫn nộ. Đám nhân viên chúng tôi đã trở về nhà bằng những cửa ngõ đặc biệt, ăm ắp nỗi lo. Những nam đồng nghiệp của tôi thường là người đồng-tính. Viết về cá tính, năng khiếu của họ cũng là một đề tài lý thú.

Và đâu phải chỉ riêng một Paris hoa lệ. Ở xứ sở này còn biết bao nét đặc trưng của những tỉnh lỵ, những thành phố tôi đã đi qua suốt mấy thập niên dài.

Tại sao không viết? Một bạn văn đã hỏi tôi như thế! Viết là sống, được sống trọn vẹn đời của người khác là một thử thách đầy thú vị, nhưng sống lại đời mình bằng tâm tưởng thì không gì hạnh phúc hơn. Tôi đã không thể sống khác với những suy tư, nghĩ tưởng tự tâm hồn.

 

Nhà văn Đặng Mai Lan

Đã hơn bốn mươi năm,

Chim lệch đường bay từ thuở ấy.

Con chim ấy là tôi, đã lệch đường bay nhưng vẫn ngoắc ngoải ngóng về phương trời cũ.

Đôi khi tôi cảm thấy mình lạc loài, cô đơn ở đời sống này. Tôi tìm những thứ đã chìm sâu dưới đáy biển thời gian. Dẫu có tìm thấy lại cũng chẳng là gì, chỉ là những ngoi ngóp chập chờn, biến hình biến dạng.

 

Sau gần nửa thế kỷ gặp lại nhau, Khiết nói sao tôi cứ hay nhớ về những nỗi buồn, những mất mát đã xảy ra trong đời mình mà theo anh thì nên buông, bỏ. Tôi muốn nói với anh, những gì anh đang nghiền ngm về cuộc sống hiện tại, con đường anh đang đi chưa thuyết phục, níu kéo được bước chân tôi. Nhưng cách sống của tôi ít nhiều, dường như cũng nằm trong những phương thức cốt lõi gọi là "chuyển hóa tâm thức" để đời sống tâm hồn được thoải mái nhẹ nhàng hơn mà anh hay nói.

Là một người nhạy cảm, dễ buồn, vui, giận dỗi nhưng tôi luôn chấp nhận mọi thứ mà cuộc đời trao gửi. Chấp nhận một thứ luật "bù trừ". Tôi tin cuộc đời không có gì tuyệt đối. Được và mất thường đi với nhau. Hai sự kiện đến với tôi liền lạc và gần như trở thành một kinh nghiệm sống. Tôi hiểu những trạng thái tâm lý của mình. Nhưng tôi không tìm cách buông bỏ như Khiết khuyên. Tôi biết lấy niềm vui này đặt lên nỗi buồn kia. Tôi thủy chung tuyệt đối với quá khứ. Chỉ có trí nhớ thường phản bội, đã bôi xóa, làm mờ đi tất cả. Và tôi nghĩ, con người chỉ thực sự an nhiên khi không còn trí nhớ.

Tôi muốn nói nhiều lắm, nhưng tôi không tin vào tri thức của mình khi bàn về lãnh vực này. Tôi sẽ đuối lý, nên tôi chỉ cười.

 

Nỗi buồn, sự đau đớn khi đứng trước cái chết của người thân, quen, là một nỗi buồn không thể sánh ví. Tôi đã đi qua những đau đớn chia lìa. Nhưng sau sự mất mát lại là những đền bù kỳ diệu. Có thể gọi đó là những hạnh-duyên như một sắp đặt trật tự của đất trời. Sau bóng tối sẽ là bình minh. Người này ra đi để lại chỗ ngồi cho người nọ. Ngẫu nhiên như nắng chan hòa sau những ngày mưa. Trong đời sống tôi, sự kiện này đã hai lần xảy ra. Và bây giờ với Khiết là lần thứ ba. Chỉ khác một điều Khiết không mới, Khiết cũ xưa như những con số đánh dấu thời gian mà chúng tôi nhẩm tính qua một tấm hình. Những  tiệm hình ngày xưa luôn in sau lưng ảnh năm tháng tấm hình được chụp. Nhưng nếu không có những ghi chú, tôi vẫn nhớ được khoảng thời gian ấy. Trí nhớ đôi khi là một ngọn đèn sáng rực, có thể rọi xuyên suốt những ngóc ngách quá khứ.

Khiết còn giữ được rất nhiều hình ảnh thời học trò. Đúng hơn, sau khi anh vượt biên, những kỷ niệm của riêng anh đã được gia đình anh cất giữ. Những tấm hình với nhiều khuôn mặt, dĩ nhiên tôi không thể nào biết hết, hoặc tôi đã quên. Và tôi chỉ xin anh chụp lại cho tôi tấm ảnh có sáu người ngồi trên thềm nhà của một khách sạn ở Vũng Tàu. Chúng tôi thường có những cuộc đi chơi ra khỏi thành phố. Hơn năm mươi năm, giấy đã ố vàng nhưng màu ảnh vẫn còn đậm rõ những gương mặt rạng rỡ thanh xuân. Tôi thích giữ bức hình này vì sáu người trong ảnh có tôi, bây giờ chỉ còn bốn.

 

Sau ba năm Sài Gòn đổi chủ, Tánh biến mất không một dấu vết nào để lại. Tánh mang tất cả vào lòng đại dương. Bây giờ là Ngọc Lan, người tôi vừa gặp lại ở Nam Cali chưa lâu lắm. Cái chết của bạn làm sống lại quá khứ. Từng khuôn mặt hiện ra, những khuôn mặt tuổi trẻ sáng ngời ngày ấy bây giờ ở đâu? Hẳn khi biết tin Ngọc Lan mất họ sẽ buồn như tôi. Tôi nhất định phải tìm họ.

Người tôi nghĩ đến đầu tiên là Út. Tên Út, nhưng trong nhóm chúng tôi, có thể nói anh là người đầu đàn, là người bày ra những chuyến đi xa, gặp gỡ. Nơi xa nhất là Tây Ninh, gần nhất là ngôi nhà xinh xinh của gia đình anh, mà anh được sở hữu một khoảng không gian rất riêng, cho phép bạn bè đến tụ tập, đàn hát những ngày nghỉ học. Ca hát, nhưng đôi khi những câu ca bỗng trở thành những lời tán tỉnh như thật, như đùa. Đắm đuối nhìn nhau nghêu ngao "Phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng"(3) chưa đủ. Táo bạo hơn, có chàng dám cầm ly nước chanh của một nàng đưa lên cao, không phải để ngân nga uống ly chanh đường, uống môi em ngọt (4), mà chỉ nheo mắt cười với nắng và mơ mộng hỏi mây rằng: môi đâu, môi đâu? Hình như đó là một tiểu tiết trong cuốn "Vòng Tay Học Trò" của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, mà có lẽ những cô cậu học trò sinh viên ngày đó đều tò mò tìm đọc.

Út có tính khôi hài, dễ thân thiện. Tôi và NL thân với anh hơn những bạn khác. Nhà của hai Lan cùng một đường, chỉ cách nhau một con ngõ nhỏ. Thỉnh thoảng anh đến nhà tôi với dăm ba câu chuyện, rồi tạt sang nhà NL. Út có người anh trai giữ một chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền thời đó. Tôi nghĩ, gia đình anh có lẽ đã rời khỏi đất nước trong những ngày biến loạn. Nhưng không tìm anh, thì tôi biết tìm ai bây giờ. Đó là một cánh cửa gần nhất may ra tôi có thể mở được.

Và chúng tôi đã tìm thấy nhau, nghe lại giọng nói, nhìn nhau cười đùa qua màn hình điện thoại.

 

Người đi, người đến.

Tuần trước tôi ngồi với một người đàn ông trên một bãi cỏ, trong một không gian bao la vắng lặng. Mỗi người một góc, cả hai chúng tôi cùng xếp bằng dưới một khoảng đất trống mà diện tích đã được đánh dấu, phân chia. Một khoảng đất nhỏ hẹp nhưng sâu thẳm bên dưới là cả một kiếp người. NL đã đến đây, nằm đó, trong ngôi nhà thiên thu của đời cô chỉ vừa được đặt nền, chờ ngày xây cất.

Nơi chúng tôi ngồi không một bóng cây. Chỉ có bóng mát khiêm nhường của cây dù mà người đàn ông mang theo được nghiêng bên này, ngả bên kia. Anh đang cố che chắn cho tôi tránh khỏi những ánh nắng chẳng mấy dịu dàng giữa trưa khô khốc. Sự tử tế ân cần của anh làm tôi nhớ vợ anh tha thiết.

Tôi vuốt ve, thầm thì với những nhánh cỏ lởm chởm trên đất khô về những buổi trưa tôi ra đầu ngõ chờ bạn đến, hoặc NL đã đứng đó đợi tôi. Nắng ngày ấy cũng chẳng khác nắng bây giờ. NL thùy mị, điệu đàng hơn tôi. Nên dù đi học hoặc đi chơi bằng chiếc xe Honda Dame của nàng hay xe Yamaha của tôi, tôi vẫn là người cầm tay lái. Thuở chưa biết yêu người, tôi yêu thứ cảm giác lâng lâng cùng xe trôi vun vút trên đường. Mặc cho tóc rối, da khô, đôi bàn tay rám nắng. Nhưng NL thì không, con nhỏ khôn ghê, cứ nép sát vào lưng tôi trốn nắng. Tôi nhỏ con hơn NL, nhưng lại là người che chở nắng mưa cho bạn mình. Dẫu buồn cách mấy, người đàn ông vừa mất vợ phải cười khi nghe tôi kể công, khoe với anh những ngày tôi đã rất anh hùng, đã "hy sinh nhan sắc" cho vợ anh như thế nào.

Một ngày, qua bao chuyện vui-buồn của tôi và anh với người đã khuất, đủ để chúng tôi trở nên thân thiết. Trước khi trầm mình trong cơn bệnh, NL đã mơ một lần được đến Paris, nhưng chuyến tàu cuối cùng của đời cô đã cập bến quá nhanh. Tôi nói với anh, anh cũng có thể đến Paris cùng linh hồn cô ấy. Tôi sẽ đưa anh vào Giáo đường Notre-Dame, hay vào Vương cung thánh đường Sacré-Cœur trên đỉnh đồi Montmartre cầu nguyện. Đó là điều tôi mong mỏi.

 

Và bây giờ tôi đang đứng với Khiết trên một con dốc của Alum Rock Park, một công viên rộng như rừng ở miền Bắc Cali. Tôi nhìn xuống hai bên triền dốc. Cỏ chớm thu chưa vàng, những vòng xanh thoai thoải, nhấp nhô, lại làm nhớ những mùa hè ở một nơi khác. Cũng đồi dốc, suối khe, chỉ thiếu những bờ cát mỏng.

Ngày đó, với hai Lan nhí nhảnh hồn nhiên còn thêm một Mai Anh nghiêm trang chững chạc vì cô đã xếp áo học trò, theo đời cơm áo sớm hơn những người bạn cùng trang lứa. Giữa ba cô gái là một Út thông minh hoạt bát, luôn tạo ra những tiếng cười giòn giã; là một Tánh điển trai đa tình, ăn mặc chải chuốt, lúc nào cũng buông ra những câu nói tình tứ mặc cho người nghe (là tôi) nghĩ sao cũng được; là một Quyền hồn nhiên sôi nổi. Với những thứ mà Quyền có thời đó, nói theo ngôn ngữ thời này thì người ta sẽ gọi anh là một "thiếu gia".

 

Mai Anh giờ lưu lạc chốn nào? Khiết còn giữ được gì trong ký ức của anh về tôi thuở đó? Tôi chỉ nhớ một anh chàng hiền lành lặng lẽ, thường tìm một góc nào đó ngồi nghe lũ bạn cười nói ồn ào. Khiết ngày xưa gầy ốm thư sinh, giờ cao to tráng kiện. Nếu tôi nói ra điều này, có thể anh sẽ dạy cho tôi một bài học làm thế nào để giữ cho "thân-tâm an lạc".

Chúng tôi đã già! So với những ngày đầy đặn nét thanh xuân, tôi bây giờ co cụm lại như thời gian phải cạn dần đi nơi mỗi kiếp người.

 

Đường trước mặt không còn nơi đến, tôi quay về thương nhớ một thời xưa.

Tôi đã đứng trên cao - ngồi dưới thấp với hai người bạn thời niên thiếu. Nơi vùng đất lạ, bỗng quay quắt nhớ quê nhà. Dường như chưa bao giờ tôi nhớ Sài Gòn đến thế. Nhớ những Chủ nhật tươi hồng với bao hẹn hò háo hức. Tôi dắt xe ra khỏi nhà, lòng ngẫu nhiên vui khi nghe những câu ca được phát ra từ máy thu thanh của nhà hàng xóm. Tôi chạy xe thong dong dưới những con đường xanh lá. Khi dịu dàng trong đôi tà áo lụa, khi quần xòe rộng với áo ôm sát vai mềm, bờ lưng thon con gái. Thứ trang phục với những sắc màu, mang chút phong cách thời trang hiện đại. Tôi vẫn chưa quên thứ cảm giác mát rượi mơn man làn áo mỏng, những lọn tóc dài xác xao bay theo từng cơn gió chướng của Sài Gòn những ngày bão rớt.

 

Áo cũ, đường xưa chỉ còn trong tâm tưởng. Nhưng những đời cây trên hàng phố ấy là đời của trăm năm. Sao tôi không về, đứng dưới một rặng cây nào đó. Ngước ngóng, tìm nghe. Nghe lại tiếng chim hót cùng những tán lá trên cao, rì rào bao nỗi buồn vui của một thời hoa mộng.

Có con chim nào lạc hướng lại không mong được bay về phương trời cũ!

 

Đặng Mai Lan

( Paris tháng 4, năm 2024)

 

 

* Tựa được trích từ bài thơ "Ngôn ngữ Chiều" (Ngô Nguyên Dũng)

1- Paris có gì lạ không em (Nguyên Sa - Ngô Thụy Miên)

2- Tiễn em (Cung Tầm Tưởng)

3- Biết đến thuở nào (Tùng Giang)

4- Trả lại em yêu (Phạm Duy)


3335. PHAN TẤN HẢI Bùi Vĩnh Phúc: Nhà Phê Bình Của Thơ Mộng, U Hiển

Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc

Tuyển tập “9 Khuôn Mặt. 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.

Tuyển tập “9 Khuôn Mặt…” dày 440 trang của Bùi Vĩnh Phúc có một điểm đặc biệt: bạn chỉ cần đọc khoảng mười trang sẽ nhận ra tự thân tuyển tập cũng là một sáng tác văn học vì chính bút pháp phê bình của họ Bùi cũng đầy sương khói nghệ thuật. Chúng ta có thể nghiệm ra rằng, một tác phẩm nghệ thuật, thí dụ, ca khúc “Hương Xưa” của nhạc sĩ Cung Tiến, tuy ngắn chỉ có 5 phút, nhưng tuổi thọ có thể là vài thập niên hay vài thế kỷ, vì thỉnh thoảng chúng ta lại có thể nghe lại dòng nhạc của Cung Tiến, năm sau, mười năm nữa, và nửa thế kỷ nữa. Đó là tuổi của nghệ thuật. Tương tự, các bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, truyện của Nguyễn Mộng Giác và tất cả tác phẩm của 9 người trên, tuổi thọ không chỉ trong vài trăm trang sách. Như Truyện Kiều của Nguyễn Du, đôi khi gắn bó rất là lâu dài với hồn thơ của một dân tộc. Và cũng tương tự, với văn phong cực kỳ thơ mộng của Bùi Vĩnh Phúc, tuyển tập phê bình này trở nên có một đời sống riêng, tuổi thọ đã vượt xa hơn 440 trang, và chúng ta có thể đọc đi đọc lại, cũng tương tự như khi nghe nhạc Cung Tiến.



Và chất thơ trong văn phong phê bình của Bùi Vĩnh Phúc cũng biến đổi, không đơn điệu. Thí dụ, trong sách “9 Khuôn Mặt…” nơi bài “Mấy Tưởng Khúc với/về Phạm Công Thiện,” trong tiểu mục phần III có nhan đề “Đêm và ngày, và Phạm Công Thiện, và bốn mươi bảy năm trôi qua trên mặt đất (Đọc và nhìn lại Phạm Công Thiện qua “Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất”)” Bùi Vĩnh Phúc nhìn về họ Phạm, như sau:

Ngửi một mùi thơm, người ta nhớ lại bao nhiêu cảnh đời đã sống, bao nhiêu xuân xanh đã vụt qua, bao nhiêu mộng tưởng đã bay thành khói chiều. Và những con người, những quyển sách, những ngày tháng đã đi qua, những nơi chốn đã trở thành ký ức, những rượu mạnh của tuổi trẻ, những nhiệt hứng của những ngày chân đạp trên gió sớm để bước vào đời. Tất cả những mùi vị những trái cây những rượu ngon của cuộc đời đó bỗng bây giờ trở lại khi người ta hơn bốn mươi bảy tuổi, người ta ngồi bên khung cửa sổ nhìn ra cây cam sai trái và những con quạ trọc đầu trượt chân té lên té xuống và tiếng lóc cóc của những con ngựa gõ vào trí nhớ. Người ta ngồi và viết ra những con kiến nhỏ của cuộc đời. Những con kiến đi vào mọi thứ ngõ ngách, mọi thứ lỗ hổng của đời sống. Những con kiến hồn nhiên, vui tươi, say mê, thô tục, lãng mạn, phất phơ, ngờ nghệch, thông minh, sáng sủa, u tối, mệt mỏi, ngạo mạn, tự chế, tự phúng, tự hào, tự mãn, tự ái, tự kiêu, tự hạ, tự tri, tự túc. Những con kiến hay có ý nghĩ tự tử nhưng luôn luôn tự triển hạn. Những con kiến, cũng như những dòng chữ kia, chưa muốn tự xoá. Chúng vẫn còn tiếp tục muốn đi trên những cành cây xuân hạ thu đông lưu dấu cuộc đời. Ði, như là một hành động để tìm kiếm ý nghĩa đích thực của sự sống.” (trang 297-298)

3334. TIẾC NUỐI Truyện ngắn Kate Chopin. Nhà văn Hoa Kỳ ( 1850 - 1904 ) THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu

Nhà văn Kate Chopin (1850-1904)


Catherine O' Flaherty sinh năm 1850 tại Saint - Louis, Missouri, bố gốc người Ái Nhĩ Lan, mẹ gốc Pháp, lớn lên trong môi trường đa văn hoá, từ nhỏ đã nói tiếng Pháp đồng thời với tiếng Anh. Theo học bậc tiểu học và trung học tại một trường công giáo với các nữ tu. Ở nhà, được nuôi dạy bởi mẹ, bà, và bà cố. Sự giao tiếp thường xuyên với những người phụ nữ ở chung quanh giúp cô bé sớm có nhận xét về vai trò của phái nữ trong gia đình và xã hội, định hình cho những ý tưởng và quan niệm cá nhân của nhà văn tương lai.

Kate Chopin ( Kate là Catherine, Chopin là họ chồng ) chịu nhiều đau thương mất mát ngay khi còn nhỏ. Cha chết vì tai nạn đường sắt khi mới lên năm (1855), bà cố, người đã dạy cho cô tiếng Pháp và văn hoá Pháp, qua đời năm 1863. Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ ( 1861 - 1865 ), cô lại mất thêm người anh ( tham gia đội quân của Liên minh miền Nam - Confederate - ).

Kate Chopin kết hôn năm 1870 với Oscar Chopin, một thương gia chuyên buôn bán bông vải, và cũng là người gốc Pháp ).Từ năm 1871 đến 1879, Kate Chopin sinh được 5 trai và 1 gái, và số phận rủi ro vẫn không buông tha, Kate lại chịu tang chồng năm 1882, chỉ sau mười hai năm chung sống. Trở thành quả phụ năm 32 tuổi, Kate Chopin vừa nuôi con, vừa tiếp tục công việc của chồng, và không tái giá.

Đây là chân dung Kate Chopin giai đoạn này, như ghi nhận của nhà phê bình Barbara Ewell:

" Kate là một người khá nổi bật và quyến rũ. Không cao lắm, có khuynh hướng mập ra, thực sự xinh đẹp, mái tóc nâu dày, dợn sóng, sớm điểm bạc, đôi mắt nâu sáng trong. Bạn bè nhớ nhiều nhất là thói quen im lặng và sự nhanh trí kiểu Ái Nhĩ Lan, thêm điểm nhấn là biệt tài bắt chước. Một bà chủ nhà duyên dáng, dễ tính, thích cười, thích âm nhạc và khiêu vũ, đặc biệt là kiểu nói chuyện thông minh, bà có thể diễn đạt quan điểm cá nhân với sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên."

Sau khi chồng chết không lâu, Kate Chopin trở về sống tại St- Louis để con cái có điều kiện học hành tốt hơn. Năm 1885, đến lượt mẹ Kate Chopin qua đời.

Một bác sĩ sản khoa, cũng là bạn thân của gia đình, khuyến khích Kate viết văn, như là một liệu pháp chống buồn nản và cô đơn sau khi chồng và mẹ lần lượt đi xa.  Nghe theo lời khuyên, Kate bắt đầu cầm bút và truyện ngắn đầu tiên của bà đã được đăng trên tờ St Louis Post Dispatch năm 1889, và một năm sau, bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết At Fault.

Hơn mười năm tiếp sau đó, Kate Chopin vừa duy trì hoạt động xã hội, vừa không ngừng sáng tác, hoàn thành được trên dưới một trăm truyện ngắn. Truyện ngắn của Kate Chopin được công bố trên những tạp chí nổi tiếng như Vogue và Atlantic Monthly. Hai tuyển tập lần lượt ra mắt: Bayou Folk, 23 truyện (1894), A Night in Acadie, 21 truyện (1897). Giới phê bình có người cho là truyện chỉ có tính địa phương, chỉ phản ảnh những sinh hoạt tại vùng Louisiana Missouri.  Đến năm 1899, bà cho xuất bản cuốn The Awakening ( Tỉnh  thức ), thu hút nhiều nhận định đánh giá trái ngược nhau. Một vài nhà phê bình khen ngợi tính nghệ thuật của tác phẩm, nhưng cũng không ít người cho là " nhàm chán ", " tầm thường", " không lành mạnh ",  thậm chí "  độc hại ". Tất cả chỉ vì Kate Chopin là người phụ nữ " đi trước thời đại ", thông qua các nhân vật của mình, bà đã bày tỏ quan niệm ( và phản ứng ) về gia đình, hôn nhân, ly dị, ngoại tình, nữ quyền, chống lại lề thói cổ truyền ( tradition ) và quyền hành ( authority ). ( Mà đâu chỉ trong tác phẩm, ngay trong sinh hoạt đời thường, Kate Chopin cũng tỏ ra " tiên phong " đấy chứ: thời còn sống tại New Orleans hay khi về một thị trấn nhỏ ở St- Louis, bà đã làm mọi người ngạc nhiên khi đi dạo một mình, hút thuốc, ăn mặc kiểu cách và cỡi ngựa hai chân hai bên. )

Kate Chopin qua đời đột ngột năm 1904, xuất huyết não.

Trong một thời gian dài, tác giả và tác phẩm bị lãng quên, ngoại trừ một số rất ít truyện được giới thiệu trong các tuyển tập xuất bản mấy năm sau khi tác giả qua đời.

Sự lãng quên ( bất công và đau đớn ) này kéo dài tới gần ... 70 năm, mãi cho đến năm 1969, khi nhà phê bình người Na Uy, Per Seyersted viết cuốn chuyên luận về tiểu sử của Kate Chopin với nhận định:

" ( Kate Chopin ) là nhà văn nữ đầu tiên trên đất nước mình nhìn nhận đam mê như là một chủ đề chính thống của tiểu thuyết nghiêm túc, công khai. Chống lại lề thói cổ truyền và quyền hành, với một sự táo bạo mà ngày nay chúng ta khó khăn mới thấu hiểu, với sự thành thực cương quyết, không có chút gì kích động, bà đảm đương việc nói lên sự thật không che đậy về mặt khuất của đời sống người phụ nữ. Bà như là người tiên phong đề cập thẳng thắn những vấn đề dục tính, ly dị, và sự thôi thúc của giới nữ mong muốn tồn tại thực sự. Trong nhiều khía cạnh, bà là một nhà văn hiện đại, nổi bật về nhận thức những phức tạp của  sự thật và tính đa dạng của tự do."

Phong trào nữ quyền ở Mỹ phát triển ngày càng mạnh từ những năm 1960 tạo thuận lợi cho việc đánh giá về tài năng và cống hiến của Kate Chopin. Tác phẩm của bà được tái bản và giới thiệu trở lại.

Thông thạo tiếng Pháp, thấm nhuần văn hoá Pháp, lúc sáng tác, Kate Chopin chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn Maupassant. Ở bậc thầy của thể loại truyện ngắn này, Kate Chopin nhận ra văn chương không phải chỉ là hư cấu, mà là chính cuộc sống, với những con người đang sống quanh ta. Nhà văn quan sát và ghi lại, trực tiếp và đơn giản, những gì mình nhìn thấy. Cũng như nhà văn Pháp, Kate Chopin thường viết lại, như kiểu ghi âm, những lời đối đáp của nhân vật với câu chữ, ngữ điệu nguyên thô, để người đọc tưởng mình đang nghe trực tiếp.

Một đặc trưng khác của Maupassant - mà Kate Chopin học tập - là cách kết cấu truyện ngắn, câu chuyện diễn tiến theo tâm lý nhân vật, tình tiết đan xen, và bỗng xoay sang một kết cuộc bất ngờ, tạo ngạc nhiên thú vị cho người đọc.

Hiện nay, Kate Chopin được xem là một khuôn mặt lớn trong nền văn học Mỹ. Tác phẩm của bà đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Trung, tiếng Mã Lai, tiếng Á Rập... và tiếng Việt.

Truyện Regret giới thiệu dưới đây đầu tiên được in ( năm 1897 ) trong tuyển tập truyện ngắn A Night in Arcadia của Kate Chopin.

Friday, April 19, 2024

3333. MÂY KHÓI QUÊ NHÀ. - Thơ PHẠM CAO HOÀNG - Phổ nhạc VĨNH ĐIỆN - Ca sĩ: NGỌC QUY

 

Núi Nhạn (Tuy Hòa) - Photo by PCH

MÂY KHÓI QUÊ NHÀ...

Thơ

PHẠM CAO HOÀNG

Phổ nhạc

VĨNH ĐIỆN

Ca sĩ:

NGỌC QUY

Hòa âm:

QUANG ĐẠT


Bè nữ: Nhóm bè Cadillac • Hình ảnh núi Nhạn, sông Đà, đập Đồng Cam và làng quê Phú Thứ (cách Tuy Hòa 10 km về phía tây): PCH • Ảnh nhân vật trong câu chuyện: Huy Bảo • Slide show: Thiên Kim.

Bấm vào đường dẫn dưới đây để nghe/xem:

https://www.youtube.com/watch?v=KFqkkQDsXWo

3332. GIẤC MƠ CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG LỐ BỊCH - Truyện ngắn Fyodor Dostoevsky (1821 – 1881.) Nhà Văn Nga - NGU YÊN dịch và giới thiệu

Fyodor Dostoevsky (1821 – 1881)

Fyodor Mikhailovich Dostoevsky là một tiểu thuyết gia người Nga thế kỷ 19 được nhiều nhà phê bình đánh giá là một trong những nhà văn vĩ đại nhất trong thời đại của ông hoặc bất kỳ thời đại nào. Tác động lâu dài đến tư tưởng và tiểu thuyết thế kỷ 20. Thường khắc họa những nhân vật có trạng thái tinh thần khác biệt và cực đoan, các tác phẩm của ông thể hiện cả sự nắm bắt kỳ lạ về tâm lý con người cũng như những phân tích sâu sắc về tình trạng chính trị, xã hội và tinh thần của nước Nga trong suốt thời kỳ đó. Nhiều tác phẩm nổi tiếng nhất của ông mang tính tiên tri như tiền thân của những suy nghĩ và mối bận tâm thời hiện đại.

 

Ông đôi khi được cho là người sáng lập ra chủ nghĩa hiện sinh, đáng chú ý nhất là trong Nhật ký dưới Hầm Đá, được nhà phê bình Walter Kaufmann mô tả là "phần mở đầu hay nhất cho chủ nghĩa hiện sinh từng được viết." Trớ trêu thay, đó không phải là thế giới quan mà cá nhân Dostoevsky tán thành.

Thay vì tranh luận với hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, Dostoevsky hài lòng khi chỉ đơn giản mô tả sự phi lý của con người, thứ không thể cứu chuộc bằng cách chỉ thay đổi trật tự xã hội. Cuốn tiểu thuyết của ông, Besy, (nghĩa đen là "Những con quỷ") được dịch là Những con quỷ hoặc Những kẻ bị quỷ ám, thường được cho là đã thấy trước sự xuất hiện của chủ nghĩa cộng sản ở Nga. Ông sợ rằng chủ nghĩa duy lý sẽ dẫn đến những hậu quả tai hại ở Nga bởi vì, như ông đã nói một câu nổi tiếng, "Không có Chúa, mọi thứ đều được phép."

Dostoevsky mắc chứng động kinh và cơn động kinh đầu tiên xảy ra khi ông mới 9 tuổi.[5] Các cơn động kinh tái phát không thường xuyên trong suốt cuộc đời ông, và những trải nghiệm của Dostoyevsky được cho là đã tạo cơ sở cho mô tả của ông về chứng động kinh của Hoàng tử Myshkin trong tiểu thuyết Thằng ngốc và của Smerdyakov trong Anh em nhà Karamazov, cùng những tác phẩm khác.

Lưu vong ở Siberia

Dostoevsky bị bắt và bỏ tù vào ngày 23 tháng 4 năm 1849 vì là thành viên của nhóm trí thức tự do, Vòng tròn Petrashevsky. Sa hoàng Nicholas I đã hưởng ứng các cuộc Cách mạng năm 1848 ở Châu Âu bằng cách đàn áp bất đồng chính kiến ​​​​nội bộ. Vào ngày 16 tháng 11 năm đó Dostoevsky, cùng với các thành viên khác của Hội Petrashevsky, bị kết án tử hình. Sau một cuộc hành quyết giả, trong đó ông và các thành viên khác trong nhóm đứng ngoài trời lạnh giá chờ bị xử bắn, bản án của Dostoyevsky được giảm xuống còn 4 năm lưu đày khổ sai tại trại tù katorga ở Omsk, Siberia. Dostoevsky sau đó đã mô tả lại cho anh trai mình những đau khổ mà ông đã trải qua trong những năm tháng ông bị "đóng cửa trong quan tài." Mô tả về doanh trại đổ nát mà "đáng lẽ phải bị phá bỏ từ nhiều năm trước", ông viết:

Vào mùa hè, sự gần gũi không thể chịu đựng được; vào mùa đông, cái lạnh không thể chịu nổi. Tất cả các tầng đã mục nát. Bẩn thỉu trên sàn nhà dày cộm; một người có thể trượt chân và ngã...Chúng tôi bị nhét đầy như cá trích trong thùng...Không có chỗ để quay lại. Từ hoàng hôn đến bình minh, không thể không cư xử như lợn...Bọ chét, rận và bọ cánh cứng đen...

Ông ra tù năm 1854 và được yêu cầu phục vụ trong Trung đoàn Siberia. Dostoevsky đã trải qua 5 năm sau đó với tư cách là binh nhì (và sau này là trung úy) trong Tiểu đoàn Đường số 7 của Trung đoàn, đóng quân tại pháo đài Semipalatinsk, nay thuộc Kazakhstan. Khi ở đó, ông bắt đầu mối quan hệ với Maria Dmitrievna Isayeva, vợ của một người quen ở Siberia. Họ kết hôn vào tháng 2 năm 1857, sau cái chết của chồng bà.

Trở lại St.Petersburg

Năm 1860, ông trở lại St. Petersburg, nơi ông bắt đầu viết tạp chí văn học thành công, Time, cùng với anh trai của mình, Mikhail. Sau khi nó bị chính phủ đóng cửa vì xuất bản một bài báo đáng tiếc của người bạn của họ, Nikolai Strakhov, họ đã bắt đầu một tạp chí không thành công khác, Epoch. Dostoevsky bị tàn phá bởi cái chết của vợ ông vào năm 1864, ngay sau đó là cái chết của anh trai ông. Tài chính què quặt vì các khoản nợ kinh doanh và nhu cầu chu cấp cho người vợ góa và con cái của anh trai mình, Dostoevsky chìm vào trầm cảm, thường xuyên lui tới các sòng bạc và thua lỗ nặng nề.

Dostoevsky mắc chứng nghiện cờ bạc cấp tính và những hậu quả của nó. Theo một tài liệu, Tiểu thuyết Tội ác và Hình phạt, có thể là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, đã được hoàn thành một cách vội vàng vì Dostoevsky đang cần nhà xuất bản ứng tiền trước gấp. Ông gần như không còn một xu dính túi sau một cuộc chơi cờ bạc. Dostoevsky đã viết The Gambler theo cách tương tự để đáp ứng thỏa thuận với nhà xuất bản Stellovsky của ông. Thỏa thuận quy định rằng nếu Stellovsky không nhận được tác phẩm mới, ông sẽ yêu cầu làm chủ bản quyền đối với tất cả các tác phẩm của Dostoyevsky.

Dostoevsky đến Tây Âu, được thúc đẩy bởi mong muốn thoát khỏi các chủ nợ ở quê nhà và đến các sòng bạc ở nước ngoài. Tại đây, ông cố gắng hàn gắn lại mối tình với Apollinaria (Polina) Suslova, một sinh viên đại học trẻ tuổi mà ông đã ngoại tình vài năm trước, nhưng cô từ chối lời cầu hôn. Dostoevsky rất đau lòng, nhưng nhanh chóng gặp Anna Snitkina, một nhà viết tốc ký 20 tuổi mà ông kết hôn vào năm 1867. Với sự giúp đỡ của cô ấy, Dostoevsky đã viết một số tiểu thuyết hay nhất từng được viết, bao gồm Tội ác và hình phạtAnh em nhà Karamazov. Từ năm 1873 đến năm 1881, ông đã minh oan cho những thất bại báo chí trước đó của mình bằng cách xuất bản một tạp chí hàng tháng gồm đầy truyện ngắn, ký họa và bài báo về các sự kiện hiện tại, có tựa đề Nhật ký của nhà văn. Tạp chí là một thành công lớn.

Năm 1877, Dostoevsky đã có một bài điếu văn gây tranh cãi tại đám tang của bạn mình, nhà thơ Nekrasov. Năm 1880, ngay trước khi qua đời, ông đã có bài phát biểu nổi tiếng về Pushkin tại lễ khánh thành Tượng đài Pushkin ở Moscow.

Trong những năm cuối đời, Fyodor Dostoevsky sống tại khu nghỉ mát Staraya Russa, gần St. Petersburg hơn và ít tốn kém hơn các khu nghỉ dưỡng ở Đức. Ông qua đời vào ngày 9 tháng 2 năm 1881 và được chôn cất tại Nghĩa trang Tikhvin tại Tu viện Alexander Nevsky, St. Petersburg, Nga.


Truyện Ngắn
GIẤC MƠ CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG LỐ BỊCH
The Dream of a Ridiculous Man

Lời người dịch:

Tôi lưỡng lự khi muốn viết những lời này. Có thể khiến cho bạn tò mò muốn đọc ngay, cũng có thể làm cho bạn kinh tâm, muốn lật qua truyện khác.

Đây là một truyện ngắn khá dài, dài không vì chữ mà dài vì khô khan, khó hiểu, dai nhách, nhưng sâu thẳm. Một khi vượt qua được sự nhàm chán của độc thoại, sự mù mờ của một ý thức quá sức sáng suốt trình bày cao hơn mức ý thức trung bình, truyện ngắn này trở thành một trong vài câu truyện hay nhất mà tôi đã đọc.

Dostoyevsky có lẽ nổi tiếng về độc thoại từ Nhật Ký Dưới Hầm Đá, nhưng đúng hơn, theo tôi, sự độc đáo nằm trong cách lý luận của ông khi độc thoại. Sức cuồn cuồn ý tưởng được kết bện chi tiết dẫn đưa những ngạc nhiên, tiếp theo ngạc nhiên, về khả năng làm sáng tỏ và gây thú vị những tư duy khô khốc,  khó hiểu vì không bình thường.

Đọc xong truyện này vài lần, tôi không thể không cảm phục tài năng đã xuất hiện cách đây gần 200 năm.

1.

Tôi là một người đàn ông lố bịch. Bây giờ họ gọi tôi là kẻ điên. Đó là sự thăng tiến rõ rệt trong địa vị xã hội nếu không, họ vẫn coi tôi ở mức lố bịch như ngày nào. Nhưng điều đó không làm tôi tức giận. Giờ đây, tất cả mọi người đều thân thiết, ngay cả khi họ cười nhạo,  vâng, ngay cả khi vì lý do gì, họ bỗng dưng đối tốt với tôi. Lẽ ra, tôi không ngại cười với họ, tất nhiên không phải cười tôi, mà vì tôi thương mến họ - nếu nhìn họ không cảm thấy quá buồn. Cảm thấy buồn vì họ không biết sự thật, trong khi tôi biết điều này. Ôi, thật khó biết bao, khi làm người duy nhất biết sự thật! Nhưng họ không hiểu. Không, họ sẽ không hiểu.

Tuy nhiên, trong quá khứ, tôi đã từng vô cùng đau khổ khi tỏ ra lố bịch. Không, không phải “tỏ ra”, nhưng chính xác là “lố bịch.” Tôi luôn có một thân hình lố bịch. Tôi cho rằng mình phải biết điều này từ ngày sinh ra đời. Dù sao, khi lên bảy tuổi, tôi thực sự biết mình lố bịch. Rồi, đi học, rồi đến trường đại học, ôi, càng học nhiều, càng ý thức mình thật lố bịch. Vì vậy, đối với tôi, những năm học chăm chỉ ở đại học dường như cuối cùng chỉ tồn tại với mục đích duy nhất là giải thích và chứng minh: khi càng mải mê học hành, tôi càng hoàn toàn vô lý. Tương tự như vậy, toàn bộ cuộc sống cũng giống như quá trình học hành của tôi. Mỗi năm tâm trí tăng cường và củng cố ý thức rằng tôi lố bịch trong mọi phương diện. Họ luôn cười nhạo, nhưng không ai biết hoặc nghi ngờ, nếu có một đàn ông nào trên thế gian biết rõ hơn bất kỳ ai hết rằng anh ta lố bịch, thì người đó chính là tôi. Chuyện này, theo ý tôi, họ không biết, là viên thuốc cay đắng nhất cho tôi nuốt. Nhưng chính tôi là người có lỗi. Luôn luôn tự hào đến mức không bao giờ muốn thú nhận điều này với bất kỳ ai. Không, tôi sẽ thú nhận dù đánh đổi bất cứ thứ gì trên thế giới. Nhiều năm trôi qua, niềm tự hào ngày càng tăng lên đến nỗi tôi tin, nếu tình cờ thú nhận điều này với bất kỳ ai, bộ não tôi sẽ nổ tung ngay trong đêm hôm đó.

Ôi, tháng ngày còn trẻ, đau khổ biết bao khi nghĩ bản thân có thể không cưỡng lại được sự thôi thúc thú nhận điều đó với các bạn học. Nhưng kể từ khi trở thành một người đàn ông, vì một lý do không rõ, đầu óc tôi trở nên điềm tĩnh hơn, mặc dù càng ngày càng ý thức rõ về đặc điểm khủng khiếp của mình. Vâng, chắc chắn, vì một lý do nào không rõ, vì cho đến nay vẫn chưa tìm ra lý do đó. Có lẽ, vì trở nên vô cùng chán nản do hoàn cảnh nằm ngoài khả năng kiểm soát của mình: Niềm tin đã chiếm lấy tôi, cho rằng không có gì trên toàn thế giới có thể tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào.

Từ lâu, đã cảm thấy điều đó lóe lên, nhưng tôi chỉ hoàn toàn bị thuyết phục vào năm ngoái, điều này xảy ra thật đột ngột, có thể nói như vậy. Đột nhiên, cảm thấy thế giới có tồn tại hay không tồn tại, ở bất cứ đâu cũng chẳng có gì khác biệt đối với tôi. Bắt đầu ý thức sâu sắc, không có gì tồn tại trong cuộc đời của chính tôi. Lúc đầu, không thể không cảm thấy ít nhiều trong quá khứ, nhiều thứ đã tồn tại; nhưng sau này, đi đến kết luận, không có bất cứ điều gì tồn tại ngay cả trong quá khứ, nhưng vì lý do nào đó, đơn thuần, nó chỉ là có. Dần dần tôi tin chắc sẽ chẳng có gì trong tương lai. Đó là lúc tôi đột nhiên không còn tức giận với mọi người và gần như không còn để ý đến họ nữa. Điều này thực sự tiết lộ trong những chuyện vặt vãnh nhỏ nhất. Ví dụ, chuyện đụng phải người khác khi đi trên đường, không phải vì chìm trong suy nghĩ, không có gì để nghĩ, tôi đã ngừng suy nghĩ bất cứ điều gì trong thời gian đó: điều này không có gì khác biệt đối với tôi. Không phải đã tìm thấy câu trả lời cho tất cả các câu hỏi. Ồ, tôi chưa giải quyết được một câu hỏi nào, và có hàng ngàn câu hỏi như vậy! Nhưng nó chẳng có gì khác biệt và tất cả các câu hỏi đều biến mất. Tốt, chỉ sau đó tôi mới biết sự thật, biết được sự thật vào tháng 11 năm ngoái, chính xác là vào ngày 3 tháng 11, từ đó, mọi khoảnh khắc in sâu vào tâm trí, không thể xóa nhòa.

Chuyện xảy ra vào một buổi tối ảm đạm, một buổi tối ảm đạm nhất có thể tưởng tượng được. Tôi trở về nhà vào khoảng mười một giờ. Hãy nhớ, lúc nào tôi cũng nghĩ: không thể có buổi tối nào ảm đạm hơn nữa. Ngay cả thời tiết cũng hôi hám. Mưa cả ngày, cũng là cơn mưa lạnh lẽo và ảm đạm nhất chưa từng có, một loại mưa đe dọa - tôi nhớ điều đó - một cơn mưa thù địch rõ rệt đối với con người. Nhưng đến khoảng mười một giờ, trời đột ngột tạnh mưa, sự ẩm ướt khủng khiếp giáng xuống vạn vật, trời trở nên ẩm và lạnh hơn nhiều so với khi đang mưa. Hơi nước đang bốc lên từ mọi thứ, từ mọi viên đá trên đường phố, từ mọi con đường phụ,  nếu nhìn kỹ từ con phố xa nhất của tầm mắt. Tôi không thể không cảm thấy, nếu ngọn đèn khí đốt tắt ở mọi nơi, mọi thứ có vẻ tươi vui hơn nhiều. Ngọn đèn khí đốt đã đè nặng con tim, vì nó soi sáng tất cả. Hầu như, hôm đó, tôi không ăn tối. Tôi đã dành cả buổi tối với một kỹ sư, có thêm hai người bạn đến thăm anh ta. Hoàn toàn không mở miệng, tôi cho rằng mình đã chọc tức họ. Họ đang thảo luận về một chủ đề gây nhiều tranh cãi, và đột nhiên trở nên rất hào hứng. Nhưng nó thực sự không tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào đối với họ. Tôi có thể thấy điều đó. Biết rõ sự phấn khích của họ là không thật. Thế là tôi chợt buột miệng nói ra. “Các bạn thân mến, các bạn không thực sự quan tâm đến điều đó đúng không?” Họ không hề phật ý chút nào, nhưng tất cả đều phá lên cười chế nhạo. Bởi tôi đã nói điều đó không có ý quở trách họ, mà chỉ đơn giản, vì điều đó không có gì khác biệt đối với tôi. Chà, họ nhận ra điều này chẳng có gì khác biệt với tôi, và họ cảm thấy vui vẻ.

Khi đang nghĩ về ánh đèn khí đốt trên đường phố, nhìn lên bầu trời. Bầu trời tối khủng khiếp, nhưng tôi có thể phân biệt rõ ràng những đám mây bị xé toạc và giữa chúng là những mảng tối không thể thăm dò. Đột nhiên, thấy ngôi sao nhỏ trong một mảng tối đó và bắt đầu nhìn nó chăm chú. Ngôi sao đã mang đến ý tưởng: quyết định tự sát đêm hôm đó. Tôi đã có ý định tự sát từ hai tháng trước, dù nghèo, đã mua cho mình khẩu súng lục ru lô tuyệt vời và lắp đầy đạn ngay. Nhưng hai tháng trôi qua súng vẫn nằm trong ngăn kéo. Tôi hoàn toàn thờ ơ với mọi thứ đến nỗi nóng lòng chờ đợi thời điểm mà tôi sẽ không thờ ơ như vậy để tự sát. Tại sao—tôi không biết. Mỗi đêm trong suốt hai tháng qua, đã nghĩ đến việc tự bắn mình khi đang trên đường về nhà. Tôi chỉ chờ đợi thời điểm thích hợp. Bây giờ ngôi sao nhỏ đã cho ý tưởng, tôi quyết định ngay lập tức, chắc chắn tự tử sẽ diễn ra vào đêm đó. Nhưng tại sao ngôi sao nhỏ lại cho tôi ý tưởng tự tử - tôi không biết.

Ngay khi đang nhìn lên bầu trời, một cô bé đột nhiên nắm lấy khuỷu tay tôi. Đường phố đã vắng vẻ và hầu như không có bóng dáng ai. Đằng xa, một người đánh xe ngựa đang ngủ say trên xe. Cô gái khoảng tám tuổi, đội chiếc khăn trên đầu, chỉ mặc chiếc áo đầm nhỏ cũ nát. Cô ấy ướt sũng, nhưng điều đọng lại trong trí nhớ của tôi là đôi ủng nhỏ rách rưới, đẫm nước, đặc biệt thu hút sự chú ý. Đột nhiên, cô ta bắt đầu kéo khuỷu tay và gọi tôi. Cô không khóc, nhưng nói điều gì bằng giọng khàn khàn, một điều vô nghĩa, bởi toàn thân run rẩy, răng đánh lập cập vì lạnh. Cô dường như đang sợ và đang khóc tuyệt vọng, “Mẹ! Mẹ!" Tôi quay lại nhìn cô, nhưng không thốt lời nào, rồi tiếp tục bước đi. Cô  chạy theo và cứ nắm giật quần áo của tôi, giọng nói mang âm thanh của những đứa trẻ đang sợ hãi,  rơi vào tuyệt vọng. Tôi biết âm thanh đó. Mặc dù những lời cô nói nghe như bị bóp nghẹt, tôi nhận ra, mẹ cô chắc chắn đang hấp hối ở một nơi rất gần, hoặc điều gì tương tự đang xảy ra, và cô chạy ra ngoài để cầu cứu, để tìm một người nào có thể giúp mẹ mình.  Nhưng tôi không đi với cô; ngược lại, có điều gì khiến tôi muốn xua đuổi con bé. Lúc đầu, tôi bảo cô đi tìm một cảnh sát. Nhưng đột nhiên hai tay cô nắm chặt rồi thút thít, thở hổn hển, cứ chạy bên cạnh, không chịu rời xa. Đó là lúc tôi giậm chân và hét vào mặt cô. Cô chỉ biết khóc: “Thưa ông! Thưa ngài!…” rồi cô đột ngột bỏ tôi, lao thẳng qua đường: một người đàn ông khác xuất hiện bên kia. Rõ ràng, cô đã lao từ tôi sang ông ta.

Leo lên tầng năm. Tôi sống xa chủ nhà. Tất cả chúng tôi đều có phòng riêng như trong một khách sạn. Căn phòng rất nhỏ và nghèo nàn. Cửa sổ hình giếng trời bán nguyệt. Một chiếc trường kỷ bọc vải Mỹ, một chiếc bàn có sách, hai ghế và một ghế bành êm ái, đúng chiếc ghế bành rất cũ, nhưng mặt ngồi thấp và có lưng cao để tựa đầu. Tôi ngồi xuống ghế bành, thắp nến lên và bắt đầu suy nghĩ. Bên cạnh, căn phòng khác phía sau vách ngăn, cảnh hỗn loạn như thường lệ đang diễn ra, đã diễn ra từ ngày hôm kia. Một đại úy quân đội nghỉ hưu sống ở đó, ông ta đang có khách - sáu ông bạn vui vẻ uống vodka và chơi faro với một bộ bài cũ. Đêm qua họ cãi nhau, tôi biết được hai người họ đã túm tóc nhau trong một thời gian dài. Bà chủ nhà muốn phàn nàn, nhưng bà sợ ông kinh khủng. Chỉ có thêm một người ở trọ trong phòng, một phụ nữ nhỏ nhắn gầy guộc, vợ một sĩ quan, đang đi thăm Petersburg cùng ba đứa con nhỏ, chúng đều bị ốm kể từ khi chúng đến đây. Cô và các con của cô chỉ đơn giản là sợ hãi ông đại úy. Họ nằm run rẩy và làm dấu thánh giá suốt đêm, đứa con út lên cơn khủng hoảng vì sợ hãi. Vị đại úy này (thực ra tôi biết điều đó) đôi khi chặn người ta trên đại lộ Nevsky và xin họ vài đồng xu, nói rằng ông rất nghèo. Ông không thể kiếm được công việc trong cơ quan dân sự, nhưng điều kỳ lạ (và đó là lý do tại sao tôi nói với bạn điều này) cả tháng nay đại úy ở với chúng tôi, chưa lần nào làm tôi bực bội. Tất nhiên, ngay từ đầu, tôi cố không dính dáng gì đến ông, và chính ông đã chán tôi ngay lần đầu tiên gặp gỡ. Nhưng dù họ có gây tiếng ồn lớn như thế nào sau vách ngăn và dù có bao nhiêu người ở trong phòng ông đại úy, điều đó không có gì khác biệt đối với tôi. Tôi thức cả đêm và đảm bảo với bạn, tôi không nghe chút nào,  đến nỗi hoàn toàn quên mất những chuyện này. Bạn thấy, thức suốt đêm cho đến sáng, và điều đó đã xảy ra cả năm rồi. Ngồi suốt đêm trên ghế bành cạnh bàn, không làm gì cả. Chỉ đọc sách vào ban ngày. Ban đêm, ngồi như thế, không hề suy nghĩ bất cứ điều gì cụ thể: một số ý nghĩ lang thang trong tâm trí và để chúng đến rồi đi, tùy ý. Trong đêm ngọn nến cháy lụn hết.

Ngồi xuống bàn, lấy khẩu súng trong ngăn kéo, đặt xuống trước mặt. Tôi nhớ mình đã tự hỏi mình khi đặt nó xuống, "Có chắc như vậy không?" và đã trả lời một cách chắc chắn: “Đúng vậy!” Điều đó có nghĩa là, sẽ tự bắn mình. Tôi biết chắc chắn tôi nên tự bắn mình vào đêm đó. Điều tôi không biết là phải ngồi ở bàn bao lâu nữa cho đến khi tôi tự bắn mình. Và có lẽ tôi đã tự bắn mình nếu không có cô bé.

II

Bạn thấy, mặc dù không có gì khác biệt, nhưng tôi có thể cảm thấy đau, phải không? Nếu bị ai đánh, tôi sẽ cảm thấy đau đớn. Điều này cũng đúng với nhận thức thần kinh. Nếu điều gì xảy ra khiến tôi thương hại, lẽ ra phải cảm thấy thương hại, giống như tôi đã từng làm trong thời gian trước, lúc mọi thứ vẫn còn tạo ra sự khác biệt đối với tôi. Thế thì đêm đó tôi cảm thấy thương hại: lẽ ra tôi nên giúp đứa trẻ. Tại sao không giúp cô gái nhỏ? Vì lúc đó tôi chợt nảy ra ý nghĩ: khi cô ấy kéo và gọi tôi, một câu hỏi chợt nảy ra trong đầu và tôi không thể giải quyết được. Đó là câu hỏi vu vơ, nhưng lại khiến tôi bực mình. Điều khiến tôi tức giận là kết luận rút ra từ suy nghĩ, nếu tôi thực sự quyết định tự kết liễu đời mình vào đêm đó, thì mọi thứ trên đời đáng lẽ phải thờ ơ với tôi hơn bao giờ hết. Tại sao tôi lại đột nhiên cảm thấy mình không thờ ơ và có lỗi với cô gái nhỏ? Tôi nhớ, mình đã rất tiếc cho cô, đến nỗi cảm thấy đau đớn lạ kỳ, mà ở vị trí của tôi hoàn toàn không thể hiểu được. Tôi e rằng mình không thể diễn đạt rõ hơn cảm giác thoáng qua đó, nhưng nó cứ bám theo tôi về nhà, khi ngồi vào bàn ăn, làm rất bực mình. Tôi không bị kích thích như vậy trong một thời gian dài trước đây. Dòng suy nghĩ này nối tiếp dòng suy nghĩ khác. Đối với tôi, rõ ràng, chừng nào tôi còn là một con người chứ không phải là một mật mã vô nghĩa, và cho đến khi trở thành một mật mã, tôi vẫn sống, do đó vẫn đau khổ, tức giận và cảm thấy xấu hổ về hành động của mình. Cũng được. Nhưng mặt khác, nếu tôi định tự sát trong hai giờ nữa chẳng hạn, thì cô bé đó có liên quan gì đến tôi và tôi cần gì phải xấu hổ hay bất cứ điều gì khác trên đời?

Tôi sẽ biến thành mật mã, một mật mã tuyệt đối. Và chắc chắn chẳng bao lâu nữa tôi sẽ không còn tồn tại, do đó mọi thứ sẽ không còn tồn tại, lẽ ra phải có một tác động nhỏ nào đến cảm giác thương hại đối với cô bé hoặc cảm giác xấu hổ sau hành động hèn hạ. Rốt cuộc tại sao tôi lại giậm chân và la hét dữ dội với cô gái nhỏ như vậy? Làm như vậy, vì tôi nghĩ,  không những tôi không cảm thấy thương hại mà bây giờ nếu phạm tội vô nhân đạo cũng không thành vấn đề, vì trong hai giờ nữa mọi thứ sẽ chấm dứt. Bạn có tin không, khi tôi nói với bạn, đó là lý do duy nhất khiến tôi hét lên như vậy? Bây giờ, tôi gần như bị ý nghĩ này thuyết phục. Đối với tôi, dường như đã rõ ràng, cuộc sống và thế giới theo cách này hay cách khác phụ thuộc vào mình. Gần như có thể nói, thế giới dường như được tạo ra cho riêng tôi. Nếu tôi tự bắn mình, thế giới sẽ không còn tồn tại nữa. Chưa nói đến khả năng, không có gì thực sự tồn tại đối với bất kỳ ai sau tôi và cả thế giới sẽ tan biến ngay khi ý thức của tôi biến mất, Tất cả sẽ biến mất trong nháy mắt như bóng ma, như một phần không thể thiếu trong ý thức của tôi, và biến mất không để lại dấu vết. Tất cả thế giới này và tất cả những người này có lẽ chỉ tồn tại trong ý thức của tôi.

Tôi nhớ, khi ngồi thiền, bắt đầu xem xét tất cả những câu hỏi lần lượt xuất hiện trong đầu từ một góc độ hoàn toàn khác, và nghĩ ra một điều khá mới mẻ. Ví dụ, tôi có ý nghĩ kỳ lạ, nếu trước đây tôi sống trên mặt trăng hoặc sao Hỏa rồi đã làm việc gì  đáng xấu hổ và nhục nhã nhất có thể tưởng tượng được, đã bị sỉ nhục và sỉ nhục ở đó nhiều như có thể tưởng tượng, thỉnh thoảng đã trải qua trong giấc mơ, một cơn ác mộng. Rồi nếu sau đó tôi thấy mình ở trên trái đất, vẫn giữ được ký ức về những gì tôi đã làm trên hành tinh kia, hơn nữa tôi biết, mình không bao giờ nên quay lại nơi đó trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nếu đó là chuyện đã xảy ra, tôi có nên hay không nên, khi nhìn từ trái đất lên mặt trăng, cảm thấy chuyện đó không có gì khác biệt đối với tôi? Tôi có nên hay không nên cảm thấy xấu hổ về hành động đó? Những câu hỏi vu vơ và vô ích, vì khẩu súng đã nằm trước mặt và trong đầu tôi không một chút nghi ngờ rằng chết chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng những câu hỏi khiến tôi phấn khích và phát điên. Đối với tôi, dường như không thể chết bây giờ mà không giải quyết những câu hỏi này trước. Thực ra, cô bé đã cứu tôi, vì nhờ những câu hỏi mà tôi đã trì hoãn được giờ hành quyết bản thân.

Trong khi đó, mọi thứ trở nên yên tĩnh trong phòng ông đại úy: họ chơi bài xong và chuẩn bị đi ngủ, bây giờ chỉ càu nhàu và chửi bới nhau một cách đại khái. Chính vào lúc đó, đột nhiên tôi ngủ thiếp đi trên chiếc ghế bành, một điều chưa từng xảy ra.

Chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay. Như chúng ta đều biết, giấc mơ là những thứ rất lạ lùng: một số tình tiết thể hiện với sự sống động khá kỳ lạ, từng chi tiết được thực hiện với sự hoàn thiện của thợ kim hoàn, trong khi những giấc mơ khác mà bạn lướt qua như thể hoàn toàn không biết gì, chẳng hạn như không gian và thời gian. Những giấc mơ dường như được tạo ra không phải bởi lý trí mà bởi ham muốn, không phải bởi cái đầu mà bởi trái tim, thế nhưng đôi khi lý trí của tôi đã bày trò tồi bại trong những giấc mơ! Và hơn nữa những điều khó hiểu trong mơ lại xảy ra với nó. Chẳng hạn, anh trai tôi đã chết cách đây 5 năm. Đôi khi mơ về anh ấy: anh rất quan tâm công việc của tôi, cả hai chúng tôi đều rất quan tâm, nhưng tôi biết rất rõ qua giấc mơ, anh đã chết và được chôn cất. Làm sao tôi không ngạc nhiên, dù đã chết, anh vẫn ở đây bên cạnh cố gắng hết sức giúp đỡ tôi? Tại sao lý trí của tôi chấp nhận tất cả những điều này mà không một chút do dự? Nhưng khá đủ để tôi kể cho bạn nghe giấc mơ. Vâng, tôi đã mơ vào đêm ngày 3 tháng 11. Bây giờ họ đang chế giễu bằng cách nói, đó chỉ là giấc mơ. Nhưng đó có phải là giấc mơ hay không, miễn là giấc mơ đó tiết lộ cho tôi Sự Thật thì có quan trọng gì? Vì một khi bạn đã nhận ra sự thật và nhìn thấy nó, bạn biết đó là sự thật duy nhất và không thể có sự thật nào khác, cho dù bạn đang ngủ hay thức. Nhưng thôi kệ. Hãy để nó là một giấc mơ, nhưng hãy nhớ, tôi đã có ý định tự sát bằng cách cắt ngắn cuộc sống có ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta, và giấc mơ của tôi - giấc mơ - ồ, nó đã tiết lộ một cuộc sống mới, vĩ đại, được tái sinh và mạnh mẽ!

Hãy lắng nghe.

III

Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay và ngay cả khi tôi đang quay lại những suy nghĩ tương tự trong đầu. Đột nhiên, mơ thấy mình nhặt khẩu súng lên và đang ngồi trên ghế bành, chĩa thẳng vào tim tôi - vào tim chứ không phải vào đầu. Vì trước đây, tôi đã quyết tâm tự bắn vào đầu, chính xác là xuyên qua thái dương từ bên phải. Nhắm súng vào ngực, dừng lại một hoặc hai giây, và đột nhiên ngọn nến, cái bàn và bức tường bắt đầu chuyển động, lắc lư trước mặt. Tôi vội bóp cò.

Trong giấc mơ, đôi khi bị ngã từ trên cao xuống, hoặc bị giết hoặc bị đánh đập, nhưng không bao giờ cảm thấy đau trừ khi trong thực tế, bằng cách này hay cách khác, tự làm mình bị thương trên giường. Khi cảm thấy đau, hầu như luôn luôn tỉnh dậy. Đó là trong giấc mơ, tôi không cảm thấy đau, nhưng dường như với phát súng, mọi thứ trong tôi đều rung chuyển và đột nhiên bị dập tắt. Một bóng tối khủng khiếp phủ xuống xung quanh. Dường như tôi trở nên mù và câm. Tôi đang nằm trên một cái gì đó rất cứng, nằm ngửa hết cỡ. Không thấy gì và không thể cử động dù chỉ nhúc nhích. Xung quanh mọi người vừa đi vừa la hét. Ông đại úy đang gào lên bằng giọng trầm trầm, bà chủ nhà đang hét lớn - đột nhiên có một khoảng gián đoạn, và tôi được khiêng trong chiếc quan tài đóng kín. Có thể cảm thấy quan tài lắc lư và tôi đang nghĩ về điều đó, lần đầu tiên ý tưởng lóe lên trong đầu: tôi đã chết. Chết ngay đơ. Tôi biết, không một chút nghi ngờ nào về điều này, tôi không thể nhìn hay di chuyển, nhưng có thể cảm nhận và suy luận. Nhưng tôi nhanh chóng chấp nhận, như thường xảy ra trong những giấc mơ,  chấp nhận sự thật mà không thắc mắc gì.

Bây giờ tôi bị chôn vùi dưới đất. Tất cả họ đã đi hết, và bỏ tôi lại một mình, hoàn toàn cô đơn. Không cử động. Trước đây, tự tưởng tượng mình sẽ như thế nào khi nằm trong mộ, tôi liên tưởng đến ẩm và lạnh. Giờ đây, đúng như vậy. Cảm giác, thực sự, ẩm ướt và lạnh lẽo. Tôi thấy giá rét, đặc biệt ở đầu các ngón chân, nhưng rồi không cảm thấy gì khác.

Nằm trong mồ, thật kỳ lạ khi nói tôi không mong đợi bất cứ điều gì, chấp nhận ý tưởng, một người đã chết không có gì để mong đợi. Đó là sự thật không thể chối cãi. Nhưng bị ẩm. Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, dù là một giờ, hay vài ngày, hay nhiều ngày. Nhưng đột nhiên một giọt nước thấm qua nắp quan tài rơi xuống mắt trái tôi đang nhắm nghiền. Tiếp theo, một phút sau, giọt khác rơi. Một giọt mỗi phút. Đột nhiên, sự phẫn nộ sâu xa bùng lên trong tim, đột nhiên, tôi cảm thấy nỗi đau thể xác nhói lên. “Đó là vết thương của tôi,” tôi nghĩ. “Đó là phát súng tôi đã bắn. Có một viên đạn ở đó…” Và giọt này đến giọt khác vẫn cứ rơi từng phút trên mí mắt đang nhắm. Đột nhiên tôi cầu xin (không phải bằng giọng nói, vì tôi bất động, mà bằng toàn bộ con người) đến Ngài, đấng chịu trách nhiệm tất cả những gì đang xảy ra:

“Dù Ngài là ai, nếu có bất cứ điều gì hợp lý tồn tại hơn những gì đang xảy ra ở đây, tôi cầu xin Ngài hãy để nó xảy ra ngay bây giờ. Nhưng nếu Ngài muốn trừng phạt vì hành động tôi tự hủy mình vô nghĩa, bằng sự ô nhục và phi lý của cuộc sống sau khi chết, thì hãy biết cho, không có tra tấn nào có thể giáng xuống tôi, sánh bằng sự khinh bỉ mà tôi sẽ tiếp tục cảm thấy trong im lặng, mặc dù chết của tôi kéo dài vô số kiếp!”

Tôi đã đưa ra lời cầu xin rồi im lặng. Sự im lặng chết chóc kéo dài gần một phút, một giọt nữa rơi xuống mí mắt, nhưng tôi biết, tôi biết và tin tưởng vô hạn. Không thể lay chuyển, mọi thứ chắc chắn sẽ thay đổi ngay lập tức. Sau đó ngôi mộ được mở ra. Tôi không biết, nghĩa là, nó đã được mở ra hay đào lên, nhưng tôi đã bị một sinh vật đen tối, vô danh nào đó bắt giữ và tự thấy mình ở trong không gian. Tôi đột nhiên nhìn thấy lại. Đó là một đêm đen như mực. Chưa bao giờ, chưa bao giờ có bóng tối như vậy! Tôi đang bay trong không gian với tốc độ khủng khiếp, đã bỏ lại trái đất sau lưng. Không thắc mắc về người đang cưu mang tôi. Tôi tự hào và chờ đợi. Nói với chính mình, tôi không sợ hãi, tôi tràn đầy ngưỡng mộ khi nghĩ mình không sợ hãi. Không thể nhớ, bay bao lâu, không thể cho biết thời gian; tất cả xảy ra như vẫn xảy ra trong giấc mơ. Khi vượt qua không gian và thời gian cũng như các quy luật tự nhiên và lý trí, rồi chỉ dừng lại ở những điểm đặc biệt quen thuộc với trái tim bạn. Tất cả những gì tôi nhớ là tôi đột nhiên nhìn thấy một ngôi sao nhỏ trong bóng tối.

“Sirius đó hả?” Tôi hỏi, đột nhiên cảm thấy không thể kiềm chế bản thân, vì đã quyết định không hỏi bất kỳ câu hỏi nào.

“Không,” người đang cõng tôi trả lời, “đó chính là ngôi sao mà bạn đã nhìn thấy giữa những đám mây khi bạn về nhà.”

Tôi biết, khuôn mặt của nó có nét giống khuôn mặt người. Một sự thật kỳ lạ nhưng tôi không thích sinh vật đó, thậm chí, còn cảm thấy ác cảm ghê gớm với nó. Tôi mong muốn hoàn toàn không tồn tại, đó là lý do tại sao tự bắn vào tim. Tuy nhiên, tôi đang ở trong tay một sinh vật, tất nhiên không phải con người, mà là con tồn tại. “Vậy là có sự sống bên kia nấm mồ!” Tôi nghĩ với giấc mơ không liên quan đến kỳ lạ, nhưng trong thâm tâm, về cơ bản, vẫn không thay đổi. “Nếu tôi phải trở lại, và sống lại theo mệnh lệnh không thể thay đổi của ai đó, tôi sẽ không bị đánh bại và bị sỉ nhục!”

“Bạn biết tôi sợ bạn và đó là lý do tại sao bạn coi thường tôi,” tôi đột ngột nói với người bạn đồng hành, không thể kiềm chế được lời nhận xét nhục nhã với sự thừa nhận có ngụ ý, và cảm thấy sự sỉ nhục của chính mình trong tim như một vết đâm sắc của cây kim nhọn.

Anh ấy không trả lời, nhưng tôi đột nhiên cảm thấy không bị coi thường, không ai chế nhạo, thậm chí không ai thương hại, cuộc hành trình của chúng tôi có mục đích, một mục đích bí ẩn, chỉ liên quan đến tôi. Nỗi sợ hãi ngày càng lớn dần trong lòng. Điều gì được truyền đạt đến tôi từ người bạn đồng hành thầm lặng—âm thầm nhưng đau đớn—dường như thấm vào tôi toàn bộ. Chúng tôi đang tăng tốc qua những vùng không gian tối tăm, vô định. Tôi đã mất dấu những chòm sao quen thuộc từ lâu. Có những ngôi sao trên trời mà ánh sáng phải mất hàng nghìn, hàng triệu năm mới đến được trái đất. Có thể chúng tôi đã bay qua những không gian đó. Tôi mong đợi điều gì trong nỗi thống khổ khủng khiếp đang bóp nghẹt trái tim. Và bỗng một cảm giác vừa lạ vừa quen, vừa hoài cổ vô cùng lay động đến tận cùng: tôi chợt thấy mặt trời! Biết không phải mặt trời này đã sinh ra trái đất, chúng ta ở cách xa mặt trời hàng triệu dặm, nhưng vì lý do nào không rõ, tôi nhận ra bằng từng thớ thịt của mình, chính xác đó là mặt trời của chúng ta, bản sao giống hệt và song sinh của nó. Một cảm giác ngọt ngào, hoài cổ lấp đầy trái tim sung sướng: sức mạnh quen thuộc cũ của cùng một ánh sáng đã mang lại cho tôi sự sống, đã khuấy động tiếng vang trong tim và làm nó sống lại. Lần đầu tiên kề từ khi nằm vào mộ, tôi cảm thấy chính sự sống đó đang khuấy động trong tôi.

“Nhưng nếu đó là mặt trời, nếu nó giống hệt mặt trời của chúng ta,” tôi kêu lên, “thì trái đất ở đâu?”

Người bạn đồng hành chỉ vào ngôi sao nhỏ lấp lánh trong bóng tối với ánh sáng màu ngọc lục bảo. Chúng tôi bay thẳng đến nó.

“Nhưng những giống nhau lập lại như vậy có thể xảy ra trong vũ trụ không? Có thể là quy luật tự nhiên? Và nếu ở đó là trái đất, nó có giống trái đất của chúng ta không? Cùng một trái đất nghèo, bất hạnh, nhưng thân yêu, và thương mến mãi mãi? Khơi dậy như trái đất của chúng ta cùng một tình yêu sâu sắc đối với chính mình, ngay cả đối với những đứa con vô ơn nhất?” Tôi cứ khóc, vô cùng xúc động trước một tình yêu cuồng nhiệt, không thể kìm chế được đối với trái đất già nua thân yêu mà tôi bỏ lại phía sau.

Khuôn mặt cô bé đáng thương mà tôi đã đối xử tệ bạc, hiện lên trong tâm trí.

“Anh sẽ thấy tất cả,” người bạn đồng hành trả lời, giọng anh nghe có vẻ buồn bã lạ lùng.

Rồi chúng tôi nhanh chóng đến gần trái đất. Nó đang lớn dần trước mắt. Tôi có thể phân biệt được đại dương, những đường nét của châu Âu, và đột nhiên trong lòng bùng lên một cảm giác kỳ lạ về một sự ghen tị lớn lao và thiêng liêng.

“Làm sao có sự lập lại giống như vậy? Tôi yêu, tôi chỉ có thể yêu trái đất đã bỏ lại phía sau, nhuốm đầy máu của tôi, con người vô ơn bạc nghĩa, đã tự kết liễu cuộc đời mình bằng cách bắn vào tim. Nhưng chưa bao giờ, chưa bao giờ tôi ngừng yêu trái đất đó, ngay cả trong đêm chia tay với nó, có lẽ tôi đã yêu nó sâu đậm hơn bao giờ hết.

Có đau khổ trên trái đất mới này không? Trên trái đất cũ của chúng ta, chỉ có thể thực sự yêu thương trong đau khổ và qua đau khổ! Chúng ta không biết làm cách nào khác để yêu. Không biết tình yêu nào khác. Tôi muốn đau khổ để yêu. Tôi muốn và khao khát ngay giây phút này được hôn, với những giọt nước mắt lăn dài trên má, trái đất duy nhất mà tôi đã bỏ lại phía sau. Tôi không muốn, tôi sẽ không chấp nhận cuộc sống trên bất kỳ nơi nào khác!…”

Nhưng người bạn đồng hành đã rời đi. Đột nhiên, chính tôi cũng không nhận ra, đứng trên trái đất khác này trong ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng, đẹp và đẹp như thiên đường. Tôi tin rằng tôi đang đứng trên một trong những hòn đảo trên trái đất cũ của chúng ta tạo thành quần đảo Hy Lạp, hoặc một nơi nào đó trên bờ biển đất liền gần quần đảo này. Ồ, mọi thứ vẫn y như vậy, ngoại trừ dường như được tắm ánh hào quang của một lễ hội công cộng nào đó, hoặc một chiến thắng vĩ đại và thánh thiện nào đó cuối cùng đã đạt được. Biển màu ngọc lục bảo dịu dàng vỗ nhẹ vào bờ và hôn nó với tình yêu rõ ràng, hữu hình, gần như có ý thức. Những thân cây cao, đẹp đứng với tất cả vẻ huy hoàng của tán lá xum xuê xanh tươi, và vô số lá (chắc chắn như vậy) chào đón tôi bằng tiếng xào xạc mềm mại, dịu dàng và dường như thốt ra những lời yêu thương ngọt dịu. Cỏ tươi tốt rực rỡ với những bông hoa tươi sáng, thơm ngát. Những con chim đang bay thành đàn trong không trung và không hề sợ hãi, đậu trên vai và tay tôi, vui mừng đập đôi cánh rung rinh dịu dàng.

Cuối cùng tôi đã nhìn thấy và biết đến những con người trên trái đất may mắn này. Họ tự động đến với tôi. Họ bao vây tôi. Họ hôn tôi. Những đứa con mặt trời, những đứa con của mặt trời – ôi, chúng mới đẹp làm sao! Chưa bao giờ trên trái đất cũ, tôi thấy vẻ đẹp như vậy ở con người. Có lẽ, chỉ ở những đứa trẻ trong những năm đầu tiên của cuộc đời, người ta mới có thể tìm thấy một sự phản chiếu xa xôi, dù mờ nhạt, vẻ đẹp này. Đôi mắt của những người hạnh phúc tỏa sáng rực rỡ. Khuôn mặt họ rạng rỡ với sự hiểu biết và sự thanh thản của tâm trí đã đạt đến sự viên mãn lớn nhất. Những khuôn mặt đó rất vui vẻ; trong lời nói và giọng nói của những người này có một niềm vui như trẻ thơ. Ôi, thoạt nhìn mặt họ, tôi hiểu ngay tất cả, tất cả! Đó là một trái đất không bị vấy bẩn bởi sự sa ngã, nơi sinh sống của những người không phạm tội và sống trên cùng một thiên đường theo truyền thuyết của nhân loại, tổ tiên của chúng ta đã sống trước khi họ phạm tội, với điểm khác biệt duy nhất là tất cả trái đất ở đây ở khắp mọi nơi là cùng một thiên đường. Những người này, cười vui vẻ, vây quanh, làm tôi choáng ngợp với những cái vuốt ve của họ; họ đưa tôi về nhà, và mỗi người đều lo lắng, giúp cho tâm trí tôi được bình yên. Ồ, họ không hỏi câu hỏi nào, nhưng dường như họ biết tất cả (đó là ấn tượng của tôi), họ mong muốn xóa bỏ mọi dấu vết đau khổ trên khuôn mặt tôi càng sớm càng tốt.

IV.

Chà, bạn thấy đấy, một lần nữa, nhắc lại: Được rồi, chúng ta hãy coi đó chỉ là một giấc mơ! Nhưng cảm giác về tình yêu của những con người ngây thơ và xinh đẹp đó vẫn còn mãi trong tôi, và tôi có thể cảm thấy, tình yêu của họ bây giờ đang tuôn chảy đến tôi từ đó. Tôi đã chứng kiến tận mắt. Đã biết họ tường tận và đã bị thuyết phục. Tôi yêu họ và sau đó tôi đau khổ vì họ. Ồ, tôi biết ngay lập tức, có nhiều điều về họ, tôi không bao giờ có thể hiểu được. Là một người Nga tiến bộ hiện đại và là một cư dân tồi tệ của Petersburg, tôi thấy khó hiểu là trong khi biết rất nhiều, họ lại có rất ít kiến thức, chẳng hạn như khoa học của chúng ta.. Nhưng tôi sớm nhận ra, kiến ​​thức của họ bắt nguồn và được nuôi dưỡng bởi những cảm xúc khác với những cảm xúc mà chúng ta đã quen thuộc trên trái đất, và khát vọng của họ cũng hoàn toàn khác. Họ không mong muốn gì cả. Họ đã bình yên với bản thân. Họ không cố gắng đạt được kiến ​​thức về cuộc sống như chúng ta cố gắng tìm hiểu, vì cuộc sống họ đã đầy đủ. Nhưng kiến ​​thức của họ cao hơn và sâu hơn kiến ​​thức mà chúng ta có được từ khoa học; vì khoa học  tìm cách giải thích cuộc sống là gì và cố gắng hiểu nó để dạy người khác cách sống, trong khi họ biết cách sống mà không cần khoa học. Tôi hiểu điều đó, nhưng tôi không thể hiểu kiến ​​thức của họ. Họ chỉ cho tôi những cái cây của họ và tôi không thể hiểu được tình yêu mãnh liệt mà họ dành cho chúng; cứ như thể họ đang nói chuyện với những sinh vật giống như họ. Và, bạn biết đấy, tôi không nghĩ mình phóng đại khi nói, cây cối đã nói chuyện với họ! Phải, họ đã khám phá ra ngôn ngữ của cây, và tôi chắc rằng cây cối hiểu họ. Họ nhìn tất cả thiên nhiên như thể - những con vật sống hòa bình và không tấn công, nhưng yêu thương họ, bị chinh phục bởi tình yêu của họ dành cho chúng. Họ chỉ cho tôi các vì sao và nói chuyện về chúng theo cách mà tôi không thể hiểu được, nhưng tôi chắc chắn, theo một cách kỳ lạ nào đó, họ đã giao tiếp với các vì sao trên bầu trời, không chỉ trong suy nghĩ mà còn trong một số cách sống thực tế. Ồ, những người này không quan tâm liệu tôi có hiểu hay không; họ yêu tôi mà không có biết. Nhưng tôi cũng biết, họ sẽ không bao giờ có thể hiểu được tôi, vì lý do đó, tôi hầu như không bao giờ nói với họ về trái đất cũ. Chỉ đơn thuần hôn trái đất nơi họ sống với sự hiện diện của họ, và tôn thờ họ mà không nói lời nào. Họ thấy và để tôi tôn thờ họ mà không xấu hổ vì tôi tôn thờ, vì chính họ được yêu mến. Họ không đau khổ cho tôi khi tôi khóc, đôi khi tôi hôn chân họ, vì trong lòng họ vui mừng nhận ra tình cảm mạnh mẽ mà họ sẽ đáp lại tình yêu của tôi. Nhiều lúc tôi kinh ngạc tự hỏi làm sao họ không bao giờ xúc phạm một người như tôi và không một lần khơi dậy trong lòng một người như tôi cảm giác ghen ghét và đố kỵ. Nhiều lần tôi tự hỏi làm sao tôi - một kẻ khoác lác và dối trá - có thể kiềm chế không nói với họ tất cả những gì tôi biết về khoa học và triết học, những thứ mà tất nhiên là họ không biết gì? Làm thế nào mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc gây ấn tượng với họ bằng kho kiến ​​thức của mình, hoặc truyền đạt kiến ​​thức của tôi cho họ vì tình yêu mà tôi dành cho họ?

Họ vui tươi và tinh thần cao như những đứa trẻ. Họ lang thang trong những khu rừng và khu rừng xinh đẹp, họ hát những bài hát hay, họ sống bằng thức ăn đơn giản—trái cây, mật ong từ rừng và sữa của những con vật yêu thích chúng. Để có được cơm ăn áo mặc, họ không phải làm việc cực nhọc hay lâu dài. Họ biết yêu thương và sinh con đẻ cái, nhưng tôi chưa bao giờ nhận thấy ở họ những cơn bộc phát nhục dục độc ác  như đã từng xâm chiếm hầu hết mọi người trên trái đất của chúng ta, bất kể đàn ông hay đàn bà, và là nguồn gốc duy nhất của hầu hết mọi tội lỗi của loài người. Họ vui mừng vì những đứa con mới chào đời như những người mới chia sẻ niềm hạnh phúc. Giữa họ không có cãi vã hay ghen tuông, và thậm chí họ không biết những từ ngữ đó có nghĩa là gì. Con cái họ là con cái của tất cả mọi người, vì tất cả họ đều là một gia đình. Hầu như không có bất kỳ bệnh tật nào, mặc dù, có cái chết; nhưng những người già đã chết một cách thanh thản, như thể đang chìm vào giấc ngủ, xung quanh là những người đang từ biệt, chúc phúc và tươi cười với họ, và chính họ cũng mỉm cười rạng rỡ đón nhận những lời chúc từ biệt của bạn bè. Tôi chưa bao giờ thấy đau buồn hay than khóc trong những dịp đó. Những gì tôi thấy là tình yêu dường như đạt đến điểm sung sướng, nhưng đó là một sự say mê nhẹ nhàng, tự túc và đáng suy ngẫm. Có lý do để tin rằng họ đã giao tiếp với những người đã khuất sau khi chết, sự kết hợp trần thế của họ không bị cái chết cắt đứt. Họ thấy hầu như không thể hiểu được khi tôi hỏi họ về sự sống đời đời, nhưng rõ ràng trong tâm trí họ tin chắc điều đó, đến nỗi đối với họ đó không còn phải là câu hỏi. Họ không có nơi thờ cúng, nhưng họ có nhận thức nhất định về sự kết hợp sống động, không bị gián đoạn và liên tục với Vũ trụ nói chung. Họ không có tôn giáo cụ thể, nhưng thay vào đó, họ có một kiến ​​thức nhất định rằng khi niềm vui trần thế của họ đạt đến giới hạn do tự nhiên áp đặt, họ - cả người sống và người chết - sẽ đạt đến trạng thái giao tiếp gần gũi hơn với Vũ trụ nói chung. Họ hân hoan chờ đợi giây phút ấy, nhưng không vội vàng và không thiết tha, như thể đã sở hữu nó với những rung động mơ hồ của trái tim mà họ truyền đạt cho nhau.

Vào buổi tối, trước khi đi ngủ, họ thích quây quần bên nhau và hát trong những bản đồng ca du dương và hài hòa. Họ bày tỏ trong bài hát, tất cả cảm xúc đã có trong ngày và đến lúc cuối cùng bên nhau. Họ ca ngợi trước khi rời đi. Họ hoan nghênh thiên nhiên, trái đất, biển cả và rừng núi. Họ cũng thích sáng tác những bài hát về nhau, và họ ca ngợi nhau như những đứa trẻ. Những bài hát của họ rất đơn giản, nhưng chúng xuất phát từ trái tim và rung động trái tim. Không chỉ trong các bài hát, mà dường như họ dành cả cuộc đời để không ngừng ca ngợi nhau. Nó dường như là một tình yêu phổ quát và toàn diện dành cho mọi người. Một số bài hát rất trang trọng và ngây ngất, tôi hầu như không thể hiểu được. Mặc dù hiểu các từ ngữ, tôi không bao giờ có thể hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của chúng. Bằng cách nào đó, chúng vẫn nằm ngoài tầm hiểu biết của lý trí tôi, nhưng nó lại chìm sâu hơn, sâu hơn vào trái tim một cách vô thức. Tôi thường nói với họ, đã linh cảm điều đó nhiều năm trước và tất cả niềm vui, vinh quang mà tôi cảm nhận khi còn ở trái đất cũ như một niềm khao khát hoài cổ, đôi khi gần như là nỗi buồn sâu đậm không thể nguôi ngoai. Tôi có linh cảm về tất cả họ và vinh quang của họ trong những giấc mơ của trái tim tôi và trong những giấc mơ của linh hồn tôi; rằng trên trái đất của chúng ta, tôi thường không thể nhìn mặt trời lặn mà không rơi nước mắt.… Luôn luôn có nỗi đau nhói trong sự căm ghét của tôi đối với những người khác trên trái đất cũ. Tại sao tôi không thể ghét họ mà cũng không yêu họ? Tại sao  không thể tha thứ cho họ? Trong tình thương tôi dành cho họ cũng có nỗi day dứt khôn nguôi: tại sao tôi không thể yêu họ mà không ghét họ? Những người mới này lắng nghe tôi, có thể nói, họ không biết tôi đang nói chuyện gì. Nhưng tôi không hối hận vì đã nói với họ về chuyện này, vì biết họ đánh giá cao việc tôi khao khát biết bao và khắc khoải biết bao cho những người tôi đã bỏ rơi. Ồ đúng rồi, khi họ nhìn tôi bằng ánh mắt thân thương đầy tình người, khi tôi nhận ra trước mặt họ, trái tim tôi cũng trở nên ngây thơ và chân thật như họ, tôi không hối hận vì đã không hiểu được họ,

Ồ, bây giờ mọi người cười vào mặt tôi và đảm bảo tôi không thể nhìn thấy và cảm thấy bất cứ điều gì rõ ràng như vậy, mà chỉ ý thức được một cảm giác nảy sinh trong trái tim đang sốt nóng của mình, và đã tự mình phát minh ra tất cả những chi tiết đó khi thức dậy. Khi tôi nói, có lẽ họ đúng, Chúa ơi, sự thừa nhận của tôi đã gây ra bao nhiêu tiếng cười và họ chế nhạo tôi nhiều như thế nào! Tất nhiên, tại sao tôi lại bị chế ngự bởi cảm giác đơn thuần của giấc mơ và chỉ mình nó tồn tại trong trái tim bị tổn thương nặng nề của tôi. Nhưng dù sao đi nữa, những hình dạng và hình ảnh có thật trong giấc mơ, nghĩa là những thứ tôi thực sự nhìn thấy vào chính thời điểm đang mơ, tràn ngập hài hòa, đẹp mê hồn, và chân thực đến mức, không có gì ngạc nhiên sau khi tỉnh dậy, tôi buộc lòng phải bịa ra những chi tiết mà tôi không thể không xuyên tạc vì mong muốn mãnh liệt để có thể truyền đạt số chi tiết đó một cách nhanh nhất. Tuy nhiên, vì tôi không thể diễn đạt chúng bằng những từ ngữ yếu ớt của mình, chúng nhất định trở nên mờ nhạt trong tâm trí tôi. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không có quyền tin, tất cả chuyện đã xảy ra. Trên thực tế, nó có thể hay hơn, sáng sủa hơn và vui vẻ hơn gấp ngàn lần so với những gì tôi mô tả. Nếu đó chỉ là một giấc mơ thì sao? Tất cả những gì không thể không có được. Và bạn có biết không, tôi nghĩ, sẽ nói cho bạn một bí mật: có lẽ đó không phải là một giấc mơ! Vì những gì xảy ra sau đó thật khủng khiếp, thật khủng khiếp, đến nỗi nó không thể chỉ là một sự đúc kết đơn thuần của bộ não, những gì đã thấy trong giấc mơ. Cứ cho rằng trái tim tôi chịu trách nhiệm về giấc mơ của mình, nhưng liệu có thể nào chỉ riêng trái tim tôi chịu trách nhiệm cho sự thật khủng khiếp về những gì đã xảy ra với tôi sau đó? Chắc chắn trái tim non nớt, đầu óc trống rỗng và tầm thường của tôi không thể vươn tới sự mặc khải chân lý như vậy! Ồ, hãy tự phán xét: Tôi đã luôn giấu giếm điều đó, nhưng bây giờ tôi sẽ nói cho bạn biết toàn bộ sự thật. Sự thật là, tôi đã làm hỏng tất cả!

V

Vâng, vâng, nó đã kết thúc bằng việc tôi làm hỏng tất cả! Làm thế nào nó có thể xảy ra tôi không biết, nhưng có thể nhớ rõ ràng. Giấc mơ bao trùm cả ngàn năm và chỉ còn lại trong tôi một cảm giác toàn thể mơ hồ. Tôi chỉ biết, nguyên nhân của sự Sụp đổ là do tôi. Giống như một con bọ hung khủng khiếp, như mầm bệnh dịch hạch lây nhiễm cho cả vương quốc. Vì vậy, tôi đã lây nhiễm cho mình ra khắp thế giới vui vẻ mà trước đây chưa từng biết đến tội lỗi. Họ học cách nói dối, và dần dần đánh giá cao vẻ đẹp nói dối. Ồ, có lẽ, tất cả bắt đầu một cách ngây thơ, với một trò đùa, với mong muốn thể hiện, với một trò chơi đa tình, và có lẽ thực sự chỉ với một mầm mống, nhưng mầm mống này đã đi vào trái tim và họ yêu thích nó. Sự ham thích khoái lạc sớm sinh ra, sự khiêu lạc sinh ra sự ghen tuông, ghen tị, tàn ác.…

Ồ, tôi không biết, tôi không thể nhớ, nhưng chẳng bao lâu, rất nhanh, máu đầu tiên đã đổ ra; họ bị sốc và kinh hoàng, và họ bắt đầu chia rẽ và xa lánh nhau. Họ thành lập liên minh, nhưng liên minh này chống lại liên minh kia. Những lời buộc tội bắt đầu, những lời trách móc. Họ dần dần biết xấu hổ, và biến xấu hổ thành một đức tính tốt. Khái niệm về danh dự ra đời và mỗi liên minh đều nâng cao tiêu chuẩn của riêng mình. Họ bắt đầu tra tấn động vật, những con vật chạy trốn khỏi họ vào rừng và trở thành kẻ thù. Một cuộc đấu tranh bắt đầu cho sự tách biệt, cho sự cô lập, cho cá tính, cho tôi và bạn. Họ bắt đầu nói chuyện bằng các ngôn ngữ khác nhau. Họ bắt đầu biết đau khổ, và họ yêu thích đau khổ. Họ khao khát đau khổ, và họ nói, Chân lý chỉ có thể đạt được thông qua đau khổ. Đó là lúc khoa học xuất hiện. Khi trở nên độc ác, họ bắt đầu nói về tình anh em, tình nhân loại và hiểu ý nghĩa của những ý tưởng đó. Khi họ phạm tội, họ phát minh ra công lý, soạn thảo toàn bộ các bộ luật, để đảm bảo việc thực thi luật pháp, họ dựng lên một máy chém. Họ chỉ nhớ một cách mơ hồ những gì họ đã mất, sẽ không tin mình đã từng hạnh phúc và hồn nhiên. Họ thậm chí còn cười nhạo báng khả năng có được hạnh phúc trước đây và gọi đó là một giấc mơ. Thậm chí, họ không thể tưởng tượng nó dưới bất kỳ hình dạng hay hình thức xác định nào, nhưng điều kỳ cục, tuyệt lạ, mặc dù đã mất niềm tin vào trạng thái hạnh phúc trước đây và gọi nó là câu chuyện cổ tích, nhưng họ vẫn khao khát được hạnh phúc và ngây thơ, ít nhất một lần. Hơn thế nữa, giống như những đứa trẻ, họ khuất phục trước ước muốn của trái tim mình, tôn vinh ước muốn này, xây dựng những ngôi đền và bắt đầu dâng lời cầu nguyện cho ý tưởng riêng mình, chỉ là  “ham muốn” của chính họ, đồng thời tin chắc, điều đó không thể thành hiện thực. Dù không thực hiện được, họ vẫn mặc dù họ vẫn tôn thờ nó và ngưỡng mộ nó bằng nước mắt.

Tuy nhiên, nếu họ có thể bằng cách này hay cách khác trở lại trạng thái ngây thơ hạnh phúc mà họ đã đánh mất, nếu ai đó cho họ xem nó một lần nữa và hỏi họ có muốn quay lại với nó hay không, chắc chắn họ sẽ từ chối. Câu trả lời họ đưa ra là: “Nếu chúng ta không trung thực, độc ác và bất công thì sao? Dù biết những điều này và chúng ta lấy lấy làm đáng tiếc,  tự dằn vặt mình vì những điều đó, tự chuốc lấy đau đớn và trừng phạt mình có lẽ còn nặng hơn cả vị Thẩm phán nhân từ sẽ xét xử và chúng ta không biết tên gì. Nhưng chúng ta có khoa học và với sự trợ giúp của nó, sẽ lại khám phá ra sự thật, mặc dù chúng ta sẽ chỉ chấp nhận nó khi chúng ta nhận thức nó bằng lý trí của mình. Kiến thức cao hơn cảm giác, và ý thức của cuộc sống cao hơn cuộc sống. Khoa học sẽ cho chúng ta sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan sẽ tiết lộ cho chúng ta những định luật. Và sự hiểu biết về các quy luật của hạnh phúc còn cao hơn cả hạnh phúc.” Đó là những gì họ nói với tôi, sau khi thốt ra những lời đó, mỗi người trong bọn họ bắt đầu yêu bản thân mình hơn yêu bất kỳ ai khác,  thực sự họ không thể làm gì khác hơn. Mỗi người đều ghen tị với nhân cách của chính mình đến mức đã nỗ lực hết sức để giảm thiểu và hạ thấp nhân cách ở người khác; ở đó họ nhìn thấy toàn bộ mục đích của đời mình. Chế độ nô lệ xuất hiện, thậm chí là chế độ nô lệ tự nguyện: kẻ yếu sẵn sàng phục tùng ý chí của kẻ mạnh với điều kiện kẻ mạnh giúp họ đàn áp những kẻ yếu hơn mình. Các vị thánh xuất hiện, những vị thánh đến với những người này trong nước mắt, nói với họ về sự kiêu ngạo, về sự mất cân đối và hài hòa, về sự mất đi sự xấu hổ. Nhưng các vị thánh bị cười nhạo, bị ném đá cho đến chết. Máu thánh đã đổ trên ngưỡng cửa các ngôi đền. Rồi sau đó, người ta bắt đầu tự hỏi làm thế nào họ có thể đoàn kết, để mọi người ngừng yêu bản thân mình hơn hết, không can thiệp vào mọi người khác và để họ có thể sống cùng nhau trong một xã hội tối thiểu là dựa trên sự hiểu biết. Toàn bộ chiến tranh đã diễn ra trên ý tưởng này. Tất cả các chiến binh đồng thời tin chắc rằng khoa học, trí tuệ và bản năng tự bảo tồn cuối cùng sẽ buộc loài người đoàn kết thành một xã hội hài hòa và thông minh, do đó, để đẩy nhanh vấn đề, “rất khôn ngoan” đã cố gắng hết sức để tiêu diệt càng nhanh càng tốt những kẻ “không khôn ngoan” không hiểu ý tưởng của họ, để ngăn họ can thiệp vào chiến thắng của mình. Nhưng bản năng tự bảo tồn bắt đầu suy yếu nhanh chóng. Những người kiêu hãnh và tham lam xuất hiện, loại người thẳng thắn đòi hỏi tất cả hoặc không có gì. Để có được mọi thứ, họ không ngần ngại dùng đến bạo lực, và nếu thất bại - là tự sát. Các tôn giáo được thành lập để truyền bá sự sùng bái không tồn tại và tự hủy diệt vì mục đích hòa bình vĩnh cửu trong hư vô. Cuối cùng những người này trở nên mệt mỏi bởi lao động vô ích của họ, nỗi thống khổ hiện rõ trên khuôn mặt, và họ tuyên bố rằng đau khổ là đẹp đẽ vì tư tưởng chỉ có thể tồn tại trong đau khổ.. Họ tôn vinh đau khổ trong các bài hát. Tôi đi giữa họ, siết chặt tay và khóc vì họ, nhưng có lẽ yêu họ hơn trước khi không có dấu hiệu đau khổ nào trên gương mặt họ và khi họ còn ngây thơ - ôi, đẹp quá! Tôi yêu trái đất mà họ đã làm ô nhiễm thậm chí còn hơn cả khi nó là thiên đường, vì nỗi buồn đã xuất hiện trên đó. Than ôi, tôi luôn luôn yêu sầu muộn và phiền não, nhưng chỉ cho riêng tôi; bây giờ tôi khóc cho họ, vì thương hại. Tôi giơ tay về phía họ, buộc tội, nguyền rủa và khinh miệt chính mình. Tôi nói với họ, một mình tôi chịu trách nhiệm tất cả - chỉ một mình tôi; chính tôi là người đã mang đến cho họ sự thối nát, ô nhiễm và dối trá! Tôi cầu xin họ đóng đinh tôi,  tôi dạy họ cách làm thánh giá. Tôi không thể tự sát; Tôi không đủ can đảm để làm điều đó; nhưng tôi khao khát được tử vì đạo dưới tay họ. Tôi khao khát được đổ máu cho đến giọt cuối cùng trong cực hình và đau khổ. Nhưng họ chỉ cười chế nhạo, cuối cùng bắt đầu coi tôi như người điên. Biện minh cho tôi. Họ nói, họ đã có được những gì họ muốn và những gì hiện tại không thể khác được. Cuối cùng họ nói, tôi đang trở nên nguy hiểm và họ sẽ nhốt tôi vào nhà thương điên nếu tôi không giữ được bình tĩnh. Sau đó, nỗi buồn tràn vào tâm hồn tôi với một sức mạnh đến nỗi trái tim quặn lại, cảm thấy như thể mình sắp chết, và rồi - ồ, tôi tỉnh dậy.

Đó là buổi sớm, mặt trời chưa mọc, nhưng đã khoảng sáu giờ. Khi tỉnh lại, thấy mình ngồi trên ghế bành cũ, ngọn nến đã cháy hết. Họ đang ngủ trong phòng ông đại úy, và im lặng bao trùm xung quanh, điều rất hiếm có trong ngôi nhà này. Việc đầu tiên tôi làm là nhảy tưng lên trong kinh ngạc tột độ. Trước đây chưa từng có chuyện gì như thế này xảy ra với tôi, kể cả những chi tiết vụn vặt nhất. Chẳng hạn, chưa bao giờ tôi ngủ thiếp trên chiếc ghế bành. Sau đó, khi đang đứng, định thần, đột nhiên, tôi nhìn thấy khẩu súng nằm sẵn sàng và được nạp đạn. Nhưng tôi đẩy nó ra xa ngay lập tức! Ôi, tôi khao khát cuộc sống biết bao, cuộc sống! Tôi giơ hai tay lên và kêu gọi Chân lý vĩnh cửu—không, không kêu gọi nó, nhưng đã khóc. Sự sung sướng, sự sung sướng vô hạn và vô biên làm tôi say sưa. Vâng, cuộc sống và—việc rao giảng! Tôi quyết định rao giảng ngay từ giây phút đó và dĩ nhiên là tiếp tục rao giảng cả đời. Tôi sẽ rao giảng, tôi muốn rao giảng. Gì? Tại sao? Sự thật. Vì tôi đã nhìn thấy sự thật, đã nhìn thấy  bằng chính đôi mắt của mình, đã nhìn thấy nó trong tất cả vinh quang!

Kể từ đó tôi đã đi rao giảng. Hơn nữa, yêu tất cả những người chế nhạo tôi hơn tất cả những người khác. Tại sao, tôi không biết và tôi không thể giải thích, nhưng hãy để nó như vậy. Họ nói rằng ngay cả bây giờ tôi vẫn thường mê muội và hỗn loạn, nếu bây giờ tôi mê muội và hỗn loạn thì sau này sẽ ra sao? Hoàn toàn đúng. Tôi thực sự bối rối và lẫn lộn,  rất có thể sẽ trở nên tồi tệ hơn. Và, tất nhiên, tôi sẽ bối rối nhiều lần trước khi tìm ra cách thuyết giảng, nghĩa là sử dụng từ ngữ nào và thực hiện hành động ra sao, vì điều đó rất khó! Tất cả những điều này thậm chí bây giờ đã rõ như ban ngày, nhưng xin hãy nói cho tôi biết ai không bị lẫn lộn và bối rối? Tuy nhiên, tất cả đều đi theo cùng một con đường, ít nhất là tất cả đều cố gắng đạt được cùng một điều, từ triết gia đến tên tội phạm thấp kém nhất, chỉ bằng những con đường khác nhau. Đó là một sự thật cũ, nhưng đây là điều mới: thậm chí, tôi không thể bị lẫn lộn và bối rối nhiều. Vì tôi đã nhìn thấy Sự Thật. Đã thấy nó và biết rằng mọi người có thể hạnh phúc, xinh đẹp, mà không mất khả năng sống trên trái đất. Tôi sẽ không và không thể tin, cái ác là tình trạng bình thường của con người. Thế mà tất cả bọn họ đều cười nhạo niềm tin này của tôi. Nhưng làm sao tôi có thể không tin vào điều đó? Tôi đã nhìn thấy nó - Sự thật - không phải như thể đã bịa ra nó bằng tâm trí của mình: Tôi đã nhìn thấy nó, đã nhìn thấy nó, và hình ảnh sống động của nó đã tràn ngập tâm hồn tôi mãi mãi. Đã nhìn thấy nó trong tất cả vinh quang của nó. Tôi không thể tin, nó không thể tồn tại giữa loài người. Vì vậy, làm thế nào có thể phát triển lộn xộn và lầm lẫn? Tất nhiên tôi sẽ lạc lối và e rằng thỉnh thoảng có thể nói lên những lời lẽ không phải của mình, nhưng không lâu đâu: hình ảnh sống động những gì nhìn thấy sẽ luôn ở bên tôi và chúng sẽ luôn sửa sai, dẫn tôi trở lại con đường đúng đắn. Ồ, tôi đang ở trong tình trạng tốt, và rất vui. Sẽ tiếp tục và tiếp tục trong một nghìn năm, nếu cần. Bạn có biết không, lúc đầu không định nói với bạn,  tôi đã làm hỏng chúng, nhưng đó là một sai lầm - đó là lỗi đầu tiên của tôi! Sự thật thì thầm rằng tôi đang nói dối, nên đã bảo vệ và đưa tôi đi đúng đường. Nhưng e rằng tôi không biết làm thế nào để thiết lập một thiên đường trên trái đất, vì tôi không biết làm thế nào để diễn đạt nó thành lời.

Sau giấc mơ, tôi đã mất sở trường diễn đạt mọi thứ thành lời. Tối thiểu, những từ ngữ cần thiết và quan trọng nhất. Nhưng đừng bận tâm, tôi sẽ tiếp tục và sẽ tiếp tục nói, vì tôi thực sự đã tận mắt chứng kiến, mặc dù không thể mô tả hết những gì đã thấy. Đó là điều mà những kẻ nhạo báng không hiểu. “Anh ấy có một giấc mơ,” họ nói, “một khải tượng, một ảo giác!” Ôi trời, đây có phải tất cả những gì họ cần nói không? Họ có thực sự nghĩ rằng đó việc là rất thông minh? Và họ tự hào biết bao! Một giấc mơ! Giấc mơ là gì? Còn cuộc sống của chúng ta thì sao? Đó chẳng phải cũng là một giấc mơ? Tôi sẽ nói thêm: vâng, ngay cả khi điều này không bao giờ xảy ra, ngay cả khi không bao giờ có thiên đường trên trái đất (điều đó, bằng mọi giá, tôi có thể thấy rất rõ!), thì tôi vẫn tiếp tục rao giảng. Và thực sự mọi thứ thật đơn giản làm sao: trong một ngày, trong một giờ, mọi thứ có thể được sắp xếp cùng một lúc! Điều chính là yêu người lân cận như chính mình—đó là điều chính, và đó là tất cả, không có gì khác quan trọng. Một khi bạn làm điều đó, bạn sẽ khám phá ra ngay lập tức mọi thứ có thể được sắp xếp như thế nào. Tuy nhiên, đó là một sự thật cũ, một sự thật đã được nói đi nói lại, nhưng bất chấp điều đó, nó không có chỗ đứng giữa con người! “Ý thức về đời sống cao hơn đời sống, hiểu biết về hạnh phúc cao hơn hạnh phúc.” – đó là điều chúng ta phải chống! Và tôi sẽ, tôi sẽ chiến đấu chống lại nó! Chỉ cần tất cả chúng ta đều muốn, mọi thứ có thể được sắp xếp ngay lập tức.